Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy còn nhiều vấn đề tồn tại xoay quanh các quy định về trách nhiệm hình sự cũng như thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể là pháp nhân thương mại phạm tội xâm hại tới môi trường[1]. Bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu về trách nhiệm hình sự và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nhóm hành vì xâm hại môi trường do pháp nhân thương mại thực hiện.

Từ khoá: Pháp nhân thương mại; trách nhiệm hình sự; truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm về môi trường.

Nhận bài: 05/12/2019; biên tập xong: 06/12/2019; duyệt bài: 16/12/2019.

 

Theo quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS năm 2015) thì: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, theo quy định tại điều này, pháp nhân thương mại (PNTM) chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) khi PNTM đó thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong BLHS. Phạm vi chịu TNHS của PNTM được quy định riêng tại Điều 76 BLHS năm 2015 mà trong số đó PNTM phải chịu TNHS đối với tội phạm môi trường.

Trước khi phân tích các vấn đề pháp lý về TNHS của PNTM nói chung và PNTM phạm tội về môi trường nói riêng, chúng tôi đưa ra một khái niệm khoa học đang được nghiên cứu về tội phạm môi trường: Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới các quan hệ xã hội liên quan đến việc giữ gìn, bảo vệ môi trường tự nhiên trong sạch, việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và việc bảo đảm an ninh sinh thái đối với dân cư.

  1. Quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội về môi trường

1.1. Khái niệm

Dưới góc độ khoa học, chúng tôi đưa ra một khái niệm khoa học đang nghiên cứu về TNHS của PNTM phạm tội vẻ môi trường như sau: Trách nhiệm hình sự của PNTM phạm tội về môi trường là hậu quả pháp lý bất lợi mà PNTM phải gánh chịu trước nhà nước, do người đại diện hoặc người được ủy quyền của PNTM nhân danh pháp nhân thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho môi trường được quy định tại chương XIX “Các tội phạm về môi trường” của BLHS năm 2015.

1.2. Những quy định chung

a) Về chủ thể

Trước tiên, pháp nhân phạm tội về môi trường bị truy cứu TNHS phải là PNTM có đẩy dù các điều kiện được quy định tại Điều 75 của Bộ luật Dân sự năm 2015, về bản chất, PNTM là pháp nhân có mục tiêu chỉnh là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận đỏ phải được chia cho các thành viên. Đây là dặc điểm mấu chốt để phân biệt PNTM với pháp nhân phi thương mại. Tuy nhiên, PNTM không giống với một thực thể sinh học nên không thể tự thực hiện tội phạm mà phải qua trung gian là các cá nhân[2].

Việc các nhà làm luật sử dụng thuật ngữ “người nào…” cũng đã nhằm khẳng định lại điểu đó. Vì vậy, chủ thể ở đây phải là người đại diện hoặc người được ủy quyền nhân danh pháp nhân thực hiện những hành vi phạm tội về môi trường.

b) Căn cứ để truy cửu

Pháp nhân thương mại phạm tội về môi trường chỉ bị truy cứu TNHS khi thỏa mãn đầy đủ các căn cứ sau:

+ Chủ thể: Pháp nhân thương mại được quy định tại Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015.

+ Hành vì do PNTM thực hiến: Gây nguy hiểm cho môi trường, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho môi trường. được pháp luật hình sự bảo vệ. Những hành vi nguy hiểm đó phải được quy định là tội phạm, được liệt kê tại khoản 2 Điều 76 BLHS năm 2015 mà cụ thể đối với PNTM phạm tội về môi trường bao gồm những hành vì như: Hành vi gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); hành vi vi phạm phòng ngừa, ứng phỏ, khắc phục sự cổ môi trường (Điều 237); hành vi vi phạm việc bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai, vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điểu 238), hành vi đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239 và Điều 240), hành vi hủy hoại rừng (Điều 243), hành vi vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiểm (Điều 244); hành vi vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245); hành vi nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246).

+ Lỗi của PNTM trong việc thực hiện tội phạm: Lỗi cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi phạm tội về môi trường được quy định tại 09 điều của Chương XIX BLHS năm 2015.

+ Điều kiện chịu TNHS: Pháp nhân thương mại phạm tội về môi trường chỉ phải chịu TNHS khi có đủ các điều kiện:

Hành vi phạm tội về môi trường được thực hiện nhân đanh PNTM;

Hành vi phạm tội về môi trường được thực hiện vì lợi ích của PNTM, tức là hành vi của chủ thể hướng tới mục đích nhất định của pháp nhân, bao gồm lợi ích về tài chính, vật chất, kinh tế (ví dụ như việc các doanh nghiệp không chịu xử lý rác thải đúng theo quy định của pháp luật, và để tiết kiệm chi phí các doanh nghiệp đã đổ rác thải đó ra sông, suối…). Trường hợp tội phạm được thực hiện bởi người đại diện hợp pháp của pháp nhân nhưng không nhằm mang lại một lợi ích cho pháp nhân thì pháp nhân không phải chịu TNHS;

Hành vi phạm tội về môi trường được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM;

Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS năm 201 5.

c) Nguyên tắc xử lý

Bên cạnh nguyên tắc xử lý đối với cá nhân, khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 còn quy định nguyên tắc xử lý đối với PNTM để từ đó áp dụng tương tự đối với PNTM phạm tội về môi trường như sau:

– Mọi hành vi phạm tội do PNTM thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng. pháp luật;

– Mọi PNTM phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

– Nghiêm trị PNTM phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

– Khoan hồng đối với PNTM tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

d) Hình phạt và các biện pháp tư pháp

Cũng như các hình phạt được áp dụng đối với chủ thể là PNTM nói chung, PNTM phạm tội về môi trường cũng phải chịu những hình phạt như sau: Thứ nhất, 03 hình phạt chính: (i) Phạt tiền (tối thiểu 50 triệu đồng, tối đa 20 tỷ đồng); (ii) Đình chỉ hoạt động có thời hạn (tối đa 03 năm): Là tạm dừng hoạt động của PNTM trong một hoặc một số lĩnh vực mà PNTM phạm tội gây thiệt hại và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế. Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm; (ii) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn: Là chấm đứt hoạt động của PNTM trong một hoặc một số lĩnh vực mà PNTM phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toản bộ hoạt động. Thứ hai, 03 hình phạt bổ sung: (i) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định: Thời hạn là tử 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; (ii) Cấm huy động vốn: Thời hạn cấm huy động vốn là từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; (iii) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Đối với mỗi tội phạm, PNTM phạm tội về môi trường chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Các hình phạt nhin chung chủ yếu tác động vào lợi ích kinh tế, tài chỉnh của pháp nhân.

Bên cạnh hình phạt, PNTM phạm tội về môi trường còn có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp sau: (i) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, như: Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chắc những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; (ii) Trả lại tải sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; (iii) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; (iv) Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra: Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, môi trường,…

Việc quyết định hình phạt đối với PNTM nói chung và PNTM phạm tội về môi trường nói riêng được Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015, cân nhắc tỉnh chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của PNTM và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với PNTM. Đổi với các hình phạt tiến, Tòa án cần căn cứ theo tình hình tài sản, khả năng thi hành án của chủ thể phạm tội.

  1. Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội về môi trường

Việc truy cứu TNHS đối với PNTM phạm tội nói chung và PNTM phạm tội về môi trường nói riêng là một vấn để hoàn toàn mới được đặt ra, đặc biệt là vấn đề thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với đối tượng này nhằm đáp ứng kịp thời với những thay đổi của BLHS năm 2015 mà ở đây những quy định của luật nội dung thuộc BLHS làm tiền đề để quy định thủ tục tố tụng truy cứu TNHS của luật hình thức thuộc Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015.

2.1. Khái niệm

Lần đầu tiên BLTTHS năm 2015 đã quy định bị can, bị cáo có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tất cả các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại khoản l Điều 60, Điều 61 BLTTHS năm 2015. Bên cạnh đó, BLTTHS đã dành một chương riêng quy định về thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân với 16 điều được quy định tại Chương XXIX.

Như vậy, dưới góc độ khoa học pháp luật tố tụng hình sự, chúng tôi xây dựng khái niệm khoa học: Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự PNTM phạm tội về môi trường là trình tự thực hiện các quy định của BLTTHS khi tiến hành giải quyết việc bị can, bị cáo là PNTM có những hành vi phạm tội về môi trường. Ngoài ra các nhà lâm luật còn có thể áp dụng những quy định khác có liên quan đổi với PNTM phạm tội về môi trường, nhằm bảo đảm xử lý đúng đắn vụ án, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm môi trường.

2.2. Việc tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật

Như đã phân tích bên trên, chủ thể của PNTM là người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền nhân danh PNTM thực hiện các hoạt động. Như vậy, để truy cứu TNHS đối với PNTM phạm tội về môi trường thì mọi hoạt động, tổ tụng của PNTM bị uy cửu TNHS được thông qua người đại diện theo pháp luật của mình, người được PNTM chỉ định theo điều lệ, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật và là người đo Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Như vậy, trong các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đều được thông qua đại diện theo pháp luật của PNTM.

Theo quy định của BLHS năm 2015, việc truy cứu TNHS của PNTM phạm tội về môi trường không loại trừ trách nhiệm của cá nhân – người đại diện theo pháp luật của PNTM. Vì vậy, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì PNTM có trách nhiệm phải cử người khác làm người đại diện pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trưởng hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Để tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân trong quá trình tham gia tố tụng, BLTTHS năm 20I5 đã xây dựng những quy định đó tại Điều 435.

2.3. Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Sau khi phát hiện hoặc được tố giác về những hành vị xâm hại môi trường được

quy định là tội phạm theo pháp luật hình sự của PNTM, để ngăn chặn việc tiếp tục phạm tội về môi trường đồng thời hạn chế các hậu quả gây ra cho môi trường, cũng, như bảo đảm các điều kiện cho việc tiến hành thi hành án, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại Điều 436 BLTTHS năm 2015 như sau: (1) Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; (2) Phong tỏa tài khoản của pháp nhân hên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; (3) Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; (4) Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.

Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nảy không được quá thời hạn điều tra, truy tổ, xét xử theo quy định pháp luật.

2.4. Những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng

Để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, và để tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội xâm hại môi trường, các cơ quan có thẩm quyền phải làm sáng tỏ những vấn để được quy định tại Điều 441 BLTTHS như sau:

– Có hành vi xâm hại môi trường được quy định tại 09 điều của Chương XIX  gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc TNHS của PNTM phạm tội về môi trường theo quy định của BLHS;

– Lỗi của PNTM, lỗi của cá nhân là thành viên của PNTM trong việc xâm hại môi trường;

– Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra đối với môi trường của PNTM;

– Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt;

– Nguyên nhân và điều kiện của những hành vi xâm hại môi trường.

2.5. Thẩm quyền và thủ tục xét xử

Các nguyên tắc về thẩm quyền và thủ tục xét xử áp dụng đối với PNTM nói chung cũng được áp dụng đối với PNTM phạm tội môi trường. Với những vụ việc thông thường do PNTM phạm tội, BLTTHS năm 2015 thường quy định thẩm quyền dựa trên các căn cứ về sự việc phạm tội, đối tượng phạm tội, nơi xảy ra tội phạm… tạo điều kiện thuận lợi cho điều tra, truy tố, xét xử. Còn theo quy định của Điều 444 BLTTHS năm 2015, thẩm quyền xét xử của vụ án hình sự về các tội phạm về môi trường của PNTM thực hiện là Tòa án nơi PNTM có những hành vi xâm hại môi trường được coi là tội phạm theo quy định của BLHS. Trong trường hợp tội phạm môi trường được thực hiện ở nhiều nơi thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi PNTM đó có Trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của PNTM đó thực hiện tội phạm.

Trong quả trình xét xử cũng phải căn cứ vào sự việc phạm tội, đối tượng phạm tội để xác định thẩm quyền giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tinh, giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự.

Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tải thẩm đối với PNTM thực hiện tội phạm môi trường được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại xét xử vụ án hình sự và phân xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS năm 2015. Phiên tòa xét xử đối với PNTM phải có mặt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; có mặt bị hại hoặc người đại diện của bị hại…

  1. Một số giải pháp đảm báo áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến trách nhiệm hình sự và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự

Như vậy, sau 02 lần pháp điển hóa (BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999), lần đầu tiên các nhà lâm luật đã quy định TNHS và trình tự, thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với chủ thể là PNTM vào BLHS và BLTTHS trong lần pháp điển hóa thử ba (BLHS năm 2015). Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định BLHS và BLTTHS còn cho thấy nhiều điểm hạn chế xoay quanh vấn đề này.

3.1. Thực trạng các quy định liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân

thương mại phạm tội về môi trường

Sau khi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy một số thiếu sót trong các quy định của BLHS về TNHS của PNTM và tội phạm môi trường như sau:

Thứ nhất, khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Tuy nhiên trên thực tế, PNTM có thể thực hiện nhiều hơn một tội phạm. Vị vậy, để bảo đảm nguyên tắc “pháp chế xã hội chủ nghĩa”, bảo đảm sự thống nhất về kỹ thuật lập pháp theo chúng tôi cần sửa cụm từ “phạm một tội” đối với cả chủ thể là PNTN thành “phạm một bay nhiều tội”.

Thứ hai, cùng với việc bổ sung thêm một chủ thể mới của tội phạm là PNTM theo quy định tại Điều 8, BLHS năm 2015 cũng dành một điều khoản riêng biệt để quy định phạm vi chịu TNHS của chủ thể nảy. Tuy nhiên, khi đối chiếu nội dung 02 điều khoản này, chúng tôi nhận thấy rằng BLHS hiện hành còn thiếu thống nhất khi thông qua Điều 76 – “Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại” quy định về 33 cấu thành tội phạm của PNTM cho thấy hành vi của chủ thể mới này chỉ có thể xâm hại đến một số tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII); môi trường (Chương XIX), tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XXI)[3] mà không thể xâm phạm tới tất cả các khách thể loại như khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đã quy định. Vì vậy, việc quy định ngang hàng chủ thể là cả nhân và PNTM trong quy định về “khái niệm tội phạm” là chưa hợp lý[4].

Thứ ba, Điều 76 BLHS năm 2015 ghi nhận: “Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tạt một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này”. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, PNTM chỉ có thể thực hiện tội phạm thông qua các cá nhân; như vậy, PNTM chỉ có thế liên đới chịu TNHS về hành vi phạm tội của người đại diện hoặc người được uỷ quyền của mình. Theo đó, các nhà làm luật cần quy định rõ lại chủ thể chịu TNHS của PNTM và phải xây dựng các quy định cụ thể để mô tà được hoạt động của PNTM thì lúc đỏ mới có thể quy tội và áp dụng triệt để pháp luật hình sự vào việc định tội danh và quy định hình phạt đổi với PNTM[5].

Thứ tư, hậu quả được quy định của tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy

hiểm cho người được quy định tại Điều 240 BLHS năm 2015 mà theo đó hậu quả phải “lâm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”. Mặc dù quy định là vậy nhưng tính đến nay chưa có văn bản hướng dẫn xác định cụ thể như thế nào được coi là lan rộng? Phạm vi, quy mô, số lượng người bị lây lan như thế nào thì được coi là lan rộng?

Thứ năm, cuối cùng, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 BLHS năm 2015 phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật”. Cá thể thông thường được hiểu là từng sinh vật riêng lẻ. Tuy nhiên ở đây nên hiểu là cá thể sống hay cá thể đã chết? Nếu hiểu là cá thể sống thì quy định tại điểm a và b khoản l Điều 244 sẽ không tách rời và giải thích được sự khác nhau giữa hai hành vi được quy định tại khoản này, vì vậy, cá thể nên được hiểu là cá thể đã chết.

3.2. Một số vấn đề đặt ra khi thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự

Trong quả trình áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến thù

tục tố tụng truy cứu TNHS đối với PNTM phạm tội về môi trường, chúng tôi thấy một số điểm thiếu sót sau đây:

Thứ nhất, theo quy định của BLHS đã bổ sung chủ thể mới của tội phạm lả PNTM trong quy định về khái niệm tội phạm, phạm vi chịu TNHS cho đến những quy định của phần riêng… Tuy nhiên, theo quy định của chương XXIX BLTTHS năm 2015 lại quy định: “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân”, các quy định của chương này đều sử dụng thuật ngữ “pháp nhân” mà không phân biệt hay giới hạn loại pháp nhân nào trong, khi các quy định của BLTTHS có nghĩa vụ xây dựng các quy định về trình tự, thủ tục để áp dụng vào luật nội dung vào trong thực tiễn. Do đó, BLTTHS cần sửa thuật ngữ “pháp nhân” thành “pháp nhân thương mại” để thống nhất với các quy định của BLHS.

Thứ hai, theo quy định của Điều 76 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xác định đơn vị vũ trang nhân dân là “pháp nhân phi thương mại” (các công ty, doanh nghiệp quốc phòng). Nhưng về nguyên tắc, pháp nhân phi thương mại vẫn có thể thực hiện các tội phạm gây thiệt hại cho quân đội. Vì vậy, cần xác định rõ hơn thẩm quyền xét xử giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh, giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự.

Thứ ba, trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử cần xác định rõ ràng vai trò của người đại diện theo pháp luật của PNTM nói chung và PNTM phạm tội về môi trường nói riêng. Nhiều trường hợp, họ chỉ là người thay mặt cho PNTM tham gia tổ tụng chứ không phải là người tham gia vào hành vi phạm tội. Đối với những trường hợp này, chỉ nên xem vai trò của người đại diện như người làm chứng trong vụ án hình sự.

Như vậy, để truy cứu TNHS và áp dụng các thủ tục tiến hành truy cứu TNHS đối với PNTM nói chung và PNTM phạm tội về môi trường nói riêng, để bảo đảm thi hành đúng và có căn cứ đối với quy định của hai đạo luật này đòi hỏi các nhà làm luật cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, chỉnh sửa, bổ sung những tồn tại, vướng mắc (nếu có) trên phương diện lập pháp hình sự, kết hợp với thực tiễn áp dụng trong thời gian tới để hoàn thiện, qua đó, mới bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người và PNTM phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, áp dụng thủ tục tố tụng truy cứu chính xác, đúng pháp luật./.

                                                                                                                                                                                                                                                            Ngô Ngọc Diễm *

Vũ Thị Phượng **

                                                                        Bài viết đăng trên Tạp chí Kiểm Sát

 

 

* Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

** Khoa Luật, Trường Đại học Công đoàn.

[1]  Ngô Ngọc Diễm, Một số vấn đề về tội phạm về môi trường trong quy định của pháp luật hình sự, Tạp chí Tòa án số 17/2019, tr 23, Hà Nội

[2] Trịnh Quốc Toản, Nghiên cứu môi số quy định đặc thù về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, Tập 34, Số 3 (2018). tr.11-25.

[3] Xem: Lê Văn Cảm, Hoàn thiện chế định lớn về tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 34, Số 1, 2018, 2.

[4] Xem: Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Dự thảo Giáo trình sau đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018, tr654.

[5] Xem thêm Chương XIX, Các tội phạm về môi trường, BLHS năm 2015.

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *