Bài viết của TS.LS Ngô Ngọc Diễm và Trần Trọng Nam, Công ty luật ThinkSmart được đăng trên Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ngày 30/11/2021, Chuyên mục Phân tích – Nghiên cứu.

Có thể thấy, tiền ảo nói chung và Bitcoin nói riêng mặc dù ở Việt Nam chưa được công nhận nhưng bản thân các loại hình tiền này lại đang được thừa nhận và có sự phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia. Do đó, việc ghi nhận tiền ảo là một loại tài sản và ban hành quy định pháp luật toàn diện điều chỉnh là hướng đi phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, cũng như bắt kịp được xu thế chung của thế giới. Qua đó, tạo cơ sở vững chắc cho việc quản lý hoạt động giao dịch, môi giới, huy động vốn thông qua phát hành tiền ảo (ICO), thu thuế đối với các thu nhập từ hoạt động liên quan đến tiền ảo… Đồng thời, giúp các cơ quan có thẩm quyền quản lý tốt hơn, đấu tranh có hiệu quả chống lại các hành vi trái pháp luật trong sử dụng tiền ảo (như rửa tiền, tẩu tán tài sản…).

Thiet ke khong ten

Ngày 23/11/2021, VKSND Tối cao đã ban hành cáo trạng truy tố 16 bị can về hành vi “Cướp tài sản” đối với số tiền điện tử là 168 Bitcoin (BTC), trị giá 37,1 tỉ đồng theo kết quả giám định. Sau khi thông tin nêu trên được công bố, nhiều ý kiến tranh luận cho rằng Bitcoin có được xem là một loại tài sản. Dưới góc độ là một người nghiên cứu về pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng, tác giả xin phép bày tỏ quan điểm cá nhân về các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh hiện tượng đầu tư tiền ảo cũng như cơ chế quản lý đối với việc sử dụng, chuyển nhượng các loại hình tiền này.

Bản chất của Bitcoin và các loại tiền điện tử

Trên thực tế, tiền điện tử (electronic money) chỉ là cách gọi chung nhất để chỉ các loại tiền tệ không tồn tại dưới bất kỳ một hình thức vật lý nào và không đại diện cho bất kỳ đồng tiền quốc gia nào. Về cơ bản có thể phân ra thành nhiều loại bao gồm: Tiền ảo (virtual currency), tiền kỹ thuật số (digital currency), tiền mã hóa (cryptocurrency). Thoạt qua các thuật ngữ này có thể giống nhau nhưng bản chất lại vô cùng khác biệt, theo đó, tiền kỹ thuật số (digital currency) là một tập con của tiền điện tử dùng để chỉ các loại tiền chỉ tồn tại dưới hình thức kỹ thuật số mà không được chấp nhận quy đổi một cách rộng rãi ra các đồng tiền vật lý khác.

Tiền ảo (virtual currency) được xem là tập con của tiền kỹ thuật số, khi nó được tạo ra với mục đích chủ yếu chỉ để thanh toán mua bán dịch vụ và hàng hóa. Ví dụ điển hình của tiền ảo là các đồng tiền do các ví điện tử hoặc sàn thương mại điện tử cung cấp, như: Shopee xu, Ví Momo, Zalo Pay, Vietel Pay… Dạng tiền ảo này thực chất vẫn gắn liền với đồng tiền pháp lý (legal tender) của một quốc gia, vì các đơn vị cung cấp dịch vụ ví điện tử thực chất chỉ đang hoạt động như một bên trung gian thanh toán, nhận tiền của khách hàng và thanh toán cho bên cung cấp sản phẩm dịch vụ, chứ không phát hành ra một loại đồng tiền mới. Tiền mã hóa (cryptocurrency) là một tập con của tiền điện tử, dùng để chỉ các loại tiền điện tử được tạo ra trên nền tảng mã hóa (cryptographic) nhằm bảo đảm tính xác thực của giao dịch với các đồng tiền này.

Bitcoin là loại tiền mã hoá điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử dụng rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Để có được Bitcoin người ta phải thiết lập các hệ thống máy tính để xử lý thông tin và giải các thuật toán.

Địa vị pháp lý của tiền ảo hiện nay

Hiện nay, vẫn tồn tại rất nhiều tranh cãi liên quan đến việc liệu Bitcoin có được coi là một loại tài sản theo pháp luật quy định. Trên thực tế, có rất nhiều quan điểm trái chiều liên quan đến vấn đề này, một số nhà nghiên cứu pháp lý cho rằng Bitcoin không đủ các thành tố để được coi là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong khi đó, một số chuyên gia khác lại cho rằng nên thừa nhận Bitcoin và các loại tiền mã hóa nói chung là tài sản. Bởi, xét về bản chất nó chứa đựng những thông tin xác thực giao dịch, có thể làm phương tiện cất trữ giá trị – thứ tương đương với vàng.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì tài sản bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản được phân loại thành bất động sản và động sản, theo đó bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Muốn chứng minh Bitcoin là một loại tài sản thì phải chứng minh nó thuộc một trong các loại đã được liệt kê nêu trên.

Đầu tiên và cũng dễ ràng nhận thấy thì Bitcoin và các loại tiền mã hóa nói chung không được coi là một vật theo đúng bản chất. Hiểu theo khái niệm pháp lý, vật là tài sản, một loại tài sản hữu hình. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những điều kiện sau: Là bộ phận của thế giới vật chất; Con người chiếm hữu được; Mang lại lợi ích cho chủ thể; Có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.

Theo quy định của Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010, thì Bitcoin nói riêng và các loại tiền mã hóa không được coi là đơn vị tiền tệ chính thức của nhà nước Việt Nam. Tiếp đó, tại khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã củng cố thêm luận điểm khi cho thấy Bitcoin không được xem là ngoại tệ (không phải đồng tiền chính thức của bất cứ quốc gia nào) đồng thời cũng không phải là đối tượng của ngoại hối.

Đồng thời, Bitcoin cũng không được liệt kê vào danh sách các giấy tờ có giá. Theo quy định tại Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011, quy định các loại giấy tờ có giá bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, Séc, Công cụ chuyển nhượng khác…

Theo khoản 1 Điều 1 Nghị định 80/2016/NĐ-CP, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, Bitcoin không phải là phương tiện được phép thanh toán trên thị trường. Hay nói cách khác, nó không được phép dùng để thay thế tiền mặt hoặc phương tiện thay thế tiền mặt kể trên trong các giao dịch mua bán.

Cuối cùng, Bitcoin không được coi là một quyền tài sản bởi lẽ, quyền tài sản là quyền trị giá tính bằng tiền, gồm có quyền tài sản đối với đối tượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác (quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền địa dịch…). Quyền tài sản có thể được chia thành hai loại: Quyền đối nhân và quyền đối vật. Quyền đối vật là quyền chủ thể được tác động trực tiếp vào vật nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình như quyền cầm cố, quyền sở hữu, quyền hưởng hoa lợi, quyền thế chấp,… Quyền đối nhân là quyền chủ thể này đối với chủ thể khác. Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền (quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng…).

Như vậy, có thể thấy bitcoin không tồn tại dưới bất kỳ bản chất pháp lý nào của tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nói cách khác, nó đã và đang không được coi là một loại tài sản chính thống.

Tuy nhiên dưới góc độ lý luận, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Bitcoin hoàn toàn có thể được coi là một loại tài sản. Cụ thể: “Căn cứ vào những đặc trưng của tài sản mã hóa (hay tài sản ảo nói chung), có thể thấy đây đều là những “tài sản” không có đặc tính vật lý (được hình thành từ các thông tin tồn tại dưới dạng các đoạn mã máy tính), được trị giá bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Như vậy, quyền đối với tài sản mã hóa (hay tài sản ảo nói chung) là một loại quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”.

Có nên công nhận Bitcoin và các loại tiền mã hóa hay không?

Hiện nay, có thể thấy pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định về việc công nhận hay không đối với các loại tiền mã hóa. Vẫn còn tồn tại rất nhiều quy định chồng chéo, khó áp dụng.

Ngày 11/4/2018 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 10/CT-TTg về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác. Trong đó nhấn mạnh hoạt động đầu tư, mua bán tiền ảo, huy động vốn qua phát hành tiền ảo (ICO), đặc biệt là hoạt động sử dụng tiền ảo để huy động vốn theo phương thức đa cấp ngày càng diễn biến phức tạp, có nguy cơ ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tài chính, trật tự an toàn xã hội và có thể gây rủi ro rất lớn đối với tổ chức, cá nhân tham gia. Thủ tướng yêu cầu các cơ quan, như: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Công an… kiểm soát, ngăn chặn và xử lý việc thực hiện các giao dịch (bao gồm phát hành, giao dịch, môi giới) liên quan đến tiền ảo trái pháp luật.

Tuy nhiên, trước đó vào ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1255/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo. Trên tinh thần chỉ đạo các Bộ nghiên cứu bản chất của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo theo kinh nghiệm nước ngoài và thực tiễn Việt Nam cũng như mối quan hệ với tài sản thực, tiền thực; làm rõ vai trò của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo và tác động của tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo tới pháp luật. Từ đó hoàn thiện pháp luật về tài sản ảo, tiền điện tử, đảm bảo tính linh hoạt để phù hợp với sự thay đổi trong sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, thương mại điện tử.

Như vậy, mặc dù trước mắt Việt Nam chưa công nhận Bitcoin và các loại tiền mã hóa, tiền ảo như một loại tài sản. Tuy nhiên, Nhà nước cũng đã thể hiện tinh thần cầu thị, học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài để sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về các loại tiền ảo, nhằm quản lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân, ngăn cản những hành vi phạm pháp liên quan đến loại hình tiền ảo này. Trước khi hình thành khuôn khổ pháp lý này, mọi giao dịch mua bán, chuyển nhượng, đầu tư về tiền ảo đều được đặt dưới sự cảnh báo và hạn chế nhất định.

Liên quan đến hoạt động kinh doanh Bitcoin ở Việt Nam, vẫn còn rất nhiều mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật. Tại Quyết định 27/2018/QĐ-TTg, kinh doanh Bitcoin không được liệt kê trong hệ thống ngành, nghề kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tại Điều 6 của Luật Đầu tư 2020, kinh doanh Bitcoin không được liệt kê là một trong những ngành, nghề bị cấm đầu tư. Có thể thấy, hiện nay pháp luật Việt Nam không chính thức cho phép kinh doanh Bitcoin nhưng lại cũng không quy định rõ việc cấm kinh doanh Bitcoin. Vì vậy, tình trạng kinh doanh và đầu tư đối tượng này vẫn diễn ra.

Dẫu vậy, việc phát hành và sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo có thể bị coi là trái pháp luật, tùy tính chất mức độ mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể:

Về xử phạt hành chính: Nếu tổ chức cá nhân phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp có thể phị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Về truy cứu trách nhiệm hình sự: Trong trường hợp phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” (Điều 206 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) với khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hiện nay, rất nhiều nước trên thế giới đã chấp nhận và cho phép các giao dịch được thanh toán bằng Bitcoin và các loại tiền mã hóa như một loại tiền tệ chính thức. Mặc dù đã tồn tại từ trước nhưng cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đặc biệt với sự phát triển của Công nghệ Blockchain đã tạo ra một bước đột phá mới cho sự phát triển của các loại tiền mã hóa. Rất nhiều công ty lớn hiện nay chấp nhận việc mua bán hàng hóa, thiết bị hoặc sử dụng dịch vụ của họ bằng Bitcoin, tiêu biểu như: Tesla, PayPal… Do đó, xét về mặt tiềm năng có thể khẳng định Bitcoin và các loại tiền mã hóa có cơ hội phát triển rất lớn trong tương lai và rất có thể trở thành một xu thế trong kỷ nguyên số. Vì vậy, để có thể bắt kịp và thích ứng với sự phát triển này đòi hỏi chúng ta cần khẩn trương nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài để hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều kiện để quản lý các giao dịch liên quan đến tiền ảo, tiền mã hóa nói chung.

Cơ chế quản lý, sử dụng Bitcoin và các loại tiền mã hóa

Để có thể quản lý và sử dụng các loại tiền mã hóa nói chung cần bắt nguồn từ việc hình thành khái niệm và khuôn khổ pháp lý cho các đối tượng này. Hiện nay, chủ yếu các khái niệm về tiền ảo, tiền điện tử, tiền mã hóa đều là những khái niệm chưa được thống nhất trên phạm vi toàn cầu. Chủ yếu các khái niệm đó được đưa ra bởi các tổ chức tài chính và nhà kinh tế học, trong khi đó một khái niệm pháp lý về bản chất của tiền ảo, tiền mã hóa đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Nắm bắt được bản chất của các đối tượng này là nền tảng để xây dựng cơ sở pháp lý điều chỉnh, đưa tiền ảo nói chung vào sự quản lý chặt chẽ của pháp luật. Trước mắt, các nhà lập pháp cần nhanh chóng nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các nước để từng bước xây dựng luật và các văn bản hướng dẫn về vấn đề này.

Tiếp đó, cần công nhận tiền ảo như một loại tài sản kỹ thuật số theo hướng bổ sung thêm vào quy định về tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, cần coi đó là một loại tài sản lưu thông có điều kiện. Bởi lẽ đặc tính chung của các loại tiền ảo, tiền mã hóa là tính ẩn danh rất cao do đó hoạt động liên quan đến tiền ảo trong cả các giao dịch thông thường hay các hoạt động phạm tội như rửa tiền, tài trợ khủng bố cũng như các hoạt động phi pháp khác rất khó kiểm soát. Vì vậy, cơ chế pháp lý đối với tiền ảo cũng không thể tương đồng như với các loại tài sản thông thường, mà cần phải coi tiền ảo là một loại tài sản đặc biệt lưu thông có điều kiện. Nhà nước có thể quản lý theo hướng: Quy định về việc cấp phép phát hành tiền ảo, đăng ký kinh doanh liên quan đến các loại hình này, đề ra các điều kiện nhất định về vốn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đăng ký quyền sở hữu tài khoản; lưu trữ các thông tin về lịch sử giao dịch; tuân thủ các nguyên tắc về kế toán, kiểm toán đối với tài sản trong doanh nghiệp; tuân thủ các quy định về nghĩa vụ thuế liên quan đến sở hữu và giao dịch tiền ảo; tuân thủ các quy định của pháp luật về phòng chống rửa tiền… hướng đến việc tăng cường tính minh bạch và chính danh trong các giao dịch tiền ảo, tiền mã hóa.

Khi đã coi tiền ảo là một loại tài sản và cho phép nó lưu thông thì phải coi các thu nhập từ hoạt động phát hành, mua bán, giao dịch, môi giới tiền ảo… là thu nhập chịu thuế. Nghiên cứu cho thấy, việc không thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh và giao dịch tiền ảo có thể làm giảm thiểu một nguồn thu rất lớn đối với ngân sách Nhà nước. Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều quốc gia đánh thuế đối với thu nhập từ tiền ảo, như: Anh, Nhật Bản, Mỹ, Đức, Hàn Quốc, Australia… Do đó, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia này để có thể ban hành các quy định cụ thể về sắc thuế và cách tính thuế đối với loại tài sản mới này.

Cuối cùng, liên quan đến vấn đề quản lý, cần thiết lập cơ quan chuyên trách trực thuộc Bộ hoặc liên ngành để quản lý và cấp phép đối với hoạt động phát hành và kinh doanh tiền ảo. Điều này đặt ra đòi hỏi phải đào tạo đội ngũ cán bộ am hiểu tường tận về loại tài sản này, đồng thời nâng cấp hệ thống kỹ thuật số tiên tiến, phát triển các phần mềm giám sát, hỗ trợ việc quản lý đối với các hoạt động của cá nhân, tổ chức có liên quan đến tiền ảo. Xa hơn, chúng ta cần thiết lập sàn giao dịch tiền ảo độc lập tại Việt Nam và liên kết với mạng lưới toàn cầu. Khi đã thiết lập sàn giao dịch riêng với cơ chế đa kết nối, cơ quan quản lý có thể yêu cầu người dùng phải lập tài khoản và đăng ký kinh doanh để có thể tham gia giao dịch, trao đổi trên sàn. Nhờ đó, góp phần kiểm soát và minh bạch hóa đối với hoạt động này.

Có thể thấy, tiền ảo nói chung và Bitcoin nói riêng mặc dù ở Việt Nam chưa được công nhận nhưng bản thân các đối tượng này lại đang được thừa nhận và đạt được sự phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Do đó, việc ghi nhận tiền ảo là một loại tài sản và ban hành quy định pháp luật toàn diện để điều chỉnh là hướng đi phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, cũng như bắt kịp được xu thế chung của thế giới. Qua đó, tạo cơ sở vững chắc cho việc quản lý hoạt động giao dịch, môi giới, huy động vốn thông qua phát hành tiền ảo (ICO), thu thuế đối với các thu nhập từ hoạt động liên quan đến tiền ảo… Đồng thời, giúp các cơ quan có thẩm quyền quản lý tốt hơn, đấu tranh có hiệu quả chống lại các hành vi trái pháp luật trong sử dụng tiền ảo (như rửa tiền, tẩu tán tài sản…).

Tiến sĩ, Luật sư NGÔ NGỌC DIỄM

TRẦN TRỌNG NAM

Công ty Luật ThinkSmart, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *