Những ca từ dễ dãi: “em của ngày hôm qua”, “em là vợ người ta”, “thà là bỏ đi hết ta làm lại từ đầu”, “There’s no one at all”,… kết hợp với một số hình ảnh mang tính kích động, bạo lực, tình dục, thậm chí còn lồng ghép hình ảnh tự tử quên đi sự sống của chính mình trong video âm nhạc nhưng vẫn được coi là “hit”. Đó là câu hỏi, đồng thời cũng là sự bức xúc của xã hội khi đề cập tới sự phát triển không lành mạnh của âm nhạc trước giới trẻ. Để có một môi trường âm nhạc an toàn thì hệ thống pháp luật là điều kiện tiên quyết cần phải vào cuộc, bên cạnh đó các cơ quan hành pháp, tư pháp của hệ thống hỗ trợ – bảo vệ trẻ em cũng phải cùng chung tay hành động tức thì để ngăn ngừa “hiểm hoạ” video âm nhạc có tính định hướng tiêu cực cho giới trẻ hiện nay. Bài viết là sự tổng hợp những quan điểm của các tác giả như Vũ Thị Phượng và Minh Anh về vấn đề bảo vệ quyền trẻ em bằng pháp luật trước hiểm hoạ của âm nhạc độc hại để từ đó nhóm tác giả đề xuất mô hình tội phạm hoá trong tương lai.

1. Tác động của âm nhạc đến quyền trẻ em được sống trong môi trường trong lành

1.1. Thực trạng thị trường âm nhạc của giới trẻ

Gần đây, các ca khúc nhạc Rap, Pop đang bùng nổ với rất nhiều tác phẩm chiếm vị trí hàng đầu tại các bảng xếp hạng âm nhạc, những MV (music video) dẫn đầu top trending (thịnh hành) trên một số trang nghe nhạc trực tuyến và các nền tảng mạng xã hội, nhất là Youtube và Tiktok, thu hút lượng lớn khán giả nhất là giới trẻ. Một số tác phẩm phóng khoáng, có yếu tố lạ. Nhưng cũng từ đây xuất hiện không ít tác phẩm có ca từ phản cảm, dung tục, nội dung độc hại, cổ vũ lối sống lệch lạc…

6274a135a29c9

Rapper “Chị Cả” trên một poster quảng cáo cho chương trình gameshow về rap.

Vì thế thời gian qua, báo chí rất nhiều lần phê phán hiện tượng phản văn hóa này. Ví dụ, tháng 10/2021, video nhạc Rap mang tên “Thích ca mâu chí” do một số thành viên nhóm Rap Nhà Làm thực hiện, khiến dư luận bức xúc bởi ca khúc có nội dung xuyên tạc tôn giáo, ca từ và hình ảnh phản cảm, dung tục. Cũng liên quan đến tôn giáo, rapper Wowy từng có bản Buddha (dirty) bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhắc tên vì có nội dung xúc phạm đức Phật và đạo Phật.

Trước đó, rapper Chị Cả đã khiến người xem phản ứng gay gắt khi phát tán ca khúc Censored, trong đó có một đoạn ám chỉ quan hệ loạn luân. Không chỉ thế, nội dung, ca từ của ca khúc này cũng không phù hợp với đại chúng. Rất nhiều người nghe cũng phản ứng dữ dội với MV Cypher nhà làm thực hiện bởi Low G, Teddie J, Chí, ResQ vì chứa yếu tố tình dục lộ liễu, ca từ tục tĩu, trái thuần phong mỹ tục; với ca khúc “Mẩy thật Mẩy” của Big Dady, “Hâm nóng” của Emily với cảnh quay khoe thân thể… Ngoài ra, Binz – một rapper của cộng đồng underground, đã bị phê phán kịch liệt khi phát hành ca khúc “Thôi anh không chơi”, vì ca từ và hình ảnh trong MV là một thế giới tràn ngập rượu, ma túy và tình dục, cổ suý lối sống tự do, phóng khoáng quá đà[1]…

6274a1612b23c

MV ‘There’s no one at all’ bản “hit” của Sơn Tùng.

Gần đây nhất, MV ‘There’s no one at all’ của ca sĩ Sơn Tùng có nhiều cảnh nhân vật khổ sở giằng xé nội tâm, kèm những câu hát chán chường cuộc sống. Không tìm thấy lối ra trên con đường tăm tối chạy mãi mà chẳng thấy điểm dừng, cuối cùng, cái chết lại trở thành lựa chọn duy nhất để giải thoát một tâm hồn vốn đã mục rữa từ bên trong.

Để khẳng định cái tôi, một số bài còn trở thành công cụ để các rapper chửi bới, lăng mạ, công kích nhau trong các “trận rap chiến”. Dư luận cũng đã nhiều lần thẳng thắn chỉ rõ các ca khúc được cho là thuộc khu vực nhạc underground, gắn mác 16+, 18+ với ca từ phản cảm, dung tục, nội dung cổ súy yếu tố thiếu lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục. Đáng buồn là nhiều bài trong số này vẫn được nhiều người lựa chọn nghe, thậm chí lọt top trending trên nền tảng Youtube, Tiktok và có độ viral (lan tỏa) lớn. Thậm chí, những ca khúc có nội dung trái thuần phong mỹ tục còn làm thay đổi quan điểm và giá trị đạo đức của nhiều người trẻ. Điển hình như bài hát “Thôi anh không chơi” của Binz được không ít người coi như là “bài hát truyền thống” của “dân bay”, vì họ cảm thấy có phần hãnh diện khi “thú vui thời thượng” của họ hiện diện trong bài hát do “ngôi sao” của giới underground thể hiện. Điều này ít nhiều tạo nên tình trạng ngộ nhận với người chưa đủ trưởng thành, từ đó dễ a dua, “trang bị” cho mình các “thú vui thời thượng”. Nguy hiểm hơn, ca khúc thô tục còn là tác nhân kích thích cảm xúc tiêu cực, cổ súy cho lối sống tự do, buông thả.

1.2. Tác động của âm nhạc đến đời sống tinh thần của trẻ em

Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hóa của trẻ em và trẻ vị thành niên. Họ thường dành 2,5 giờ mỗi ngày để nghe nhạc – qua radio, điện thoại, máy nghe nhạc MP3, các trang web trực tuyến, v.v. Họ cũng xem video nhạc của nghệ sĩ và bài hát yêu thích của họ trên truyền hình và các trang web chia sẻ video vì hình ảnh trực quan có thể làm tăng hiệu ứng của âm nhạc. Âm nhạc thường mang lại cảm giác thích thú cho trẻ em và thanh thiếu niên, nhưng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng lời bài hát và hình ảnh âm nhạc có thể có tác động đáng kể đến cách suy nghĩ, cảm nhận và hành vi của giới trẻ. Trẻ em và thanh thiếu niên thường sử dụng âm nhạc để khám phá bản sắc của họ và khám phá xem họ phù hợp như thế nào. Họ thường bắt chước những gì người mẫu âm nhạc làm và nói – thử sức với những vai trò mới khi bản sắc cá nhân của họ phát triển. Âm nhạc cung cấp một cách để tuổi trẻ thể hiện và khám phá cảm xúc và cảm xúc của họ. Thanh thiếu niên thường sử dụng âm nhạc để giải quyết các chủ đề phát triển cụ thể quan trọng đối với chúng như tình yêu, tình dục, lòng trung thành, tính độc lập, tình bạn và quyền hạn. Các chủ đề tiêu cực và phá hoại của một số loại nhạc có thể không phù hợp với một số trẻ em. Các chủ đề sau, thường được xuất hiện trong một số lời bài hát, có thể đặc biệt rắc rối: Bạo lực; Lạm dụng ma túy và rượu; Tình dục hoang dại; và thậm chí tự tử như một “giải pháp thay thế” cho sự bế tắc hoặc cô đơn.

Ảnh hưởng của âm nhạc phổ biến đối với hành vi và cảm xúc của trẻ em và thanh thiếu niên là điều tối quan trọng. Lời bài hát đã trở nên rõ ràng hơn khi họ ám chỉ đến ma túy, tình dục và bạo lực, tự tử trong những năm qua, đặc biệt là trên phương tiện Youtube. Sở thích của một thanh thiếu niên đối với một số loại nhạc nhất định có thể tương quan hoặc liên quan đến một số hành vi nhất định. Cũng như với music phổ biến, nhận thức và tác động của thông điệp video ca nhạc là phổ biến, bởi vì các cuộc điều tra xã hội học đã cho thấy việc tiếp xúc với bạo lực, hành vi tình dục, định kiến ​​tình dục, sử dụng các chất kích thích, thậm chí là tự tử đang được lạm dụng trong video music có thể gây ra nhiều khó khăn những thay đổi trong hành vi và tư duy của người xem trẻ tuổi. Một số nghiên cứu khác đã báo cáo rằng thanh thiếu niên sử dụng âm nhạc phổ biến để giải quyết nỗi cô đơn và kiểm soát trạng thái cảm xúc hoặc tâm trạng của họ. Âm nhạc cũng có thể cung cấp nền tảng cho sự lãng mạn và là cơ sở để đình hình, định hướng cho tính cách của giới trẻ.

2. Bảo vệ quyền trẻ em trước tác phẩm âm nhạc độc hại bằng pháp luật hiện hành

Pháp luật với tính bắt buộc chung có khả năng tác động đến tất cả các đối tượng điều chỉnh, với sức mạnh như những thước đo giá trị của cách hành xử nên pháp luật là một yếu tố quan trọng trong số các yếu tố có khả năng bảo vệ trẻ em. Một quốc gia, khi xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng thì pháp luật đó phải có tính tương thích với pháp luật quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Do đó, môi trường bảo vệ trẻ em hiệu quả nhất là môi trường đặt trong sự bảo vệ của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia[2].

a) Trẻ em được bảo vệ bằng pháp luật quốc tế

Việt Nam đã tham gia và nội luật hóa nhiều quy định từ các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em. Trước hết là Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948. Tuyên ngôn “đòi hỏi sự tôn trọng nhân phẩm của con người, quyền tự do của mỗi người đồng thời đòi hỏi cả những nỗ lực liên tục ở mọi cấp độ để có thể hiện thực hóa việc hưởng các quyền con người trên phạm vi toàn cầu”1, và trẻ em phải được hưởng lợi từ tất cả những bảo đảm quyền con người dành cho người lớn.

Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam phê chuẩn năm 1990, quy định trực tiếp các nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em như: nguyên tắc không phân biệt đối xử, bình đẳng về cơ hội, nguyên tắc lợi ích tốt nhất cho trẻ em và nguyên tắc quyền được sống, tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, Công ước đã quy định rất nhiều quyền cơ bản của trẻ em buộc các quốc gia thành viên phải tôn trọng.

Một số công ước khác mà Việt Nam tham gia cũng khẳng định trẻ em là một đối tượng được bảo vệ như Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966, nêu rõ “Các trẻ em… phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo hộ” (Điều 24); Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 quy định “Thanh thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột về kinh tế và xã hội” (Điều 10); Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên năm 1985 (gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh) đã khẳng định “Áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên cần chú trọng đến phúc lợi của người chưa thành niên và phải bảo đảm rằng, bất cứ việc xét xử nào đối với người chưa thành niên phạm tội phải luôn xem xét hoàn cảnh của người phạm tội cũng như hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội” (Mục 5 Phần 1 – Những quy định chung)[3].

b) Trẻ em được bảo vệ bằng pháp luật trong nước đối với quyền vui chơi giải trí

Cùng với việc từng bước nội luật hóa các quy định của các văn bản pháp luật quốc tế, Việt Nam đã sớm xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em như Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14/11/1979; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, 2016; Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Bộ luật Lao động năm 2012; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Bộ luật Hình sự năm 2015 – một văn bản quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em – đã có những quy định cụ thể bảo vệ trẻ em trên hai phương diện: trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm[4].

Một trong những văn bản pháp lý cao nhất quy định trẻ em có quyền vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động văn hoá nghệ thuật… Cụ thể, Điều 17 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi”. Việc nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí của trẻ em quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh của trẻ như các yếu tố dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Trong khi vui chơi, trẻ em tự tạo ra hoặc được đặt vào những tình huống nhiều khi giống với ngoài đời thật và có những phản ứng linh hoạt đối với các tình huống đó. Không chỉ là vui chơi thuần túy, mà qua đó các em rèn luyện kỹ năng sống, trang bị kiến thức để đối phó với những “bài toán” của cuộc sống. Không những thế, vui chơi giúp trẻ em tương tác với môi trường vật chất và xã hội xung quanh, tạo ra sự phấn khích, thoải mái, vận động nên có lợi cho sức khỏe, phát triển của trẻ em. Việc nghỉ ngơi của trẻ em chính là bảo vệ sức khỏe tinh thần và thể chất của các em. Chính vì thế, trẻ em có quyền tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí phù hợp với lứa tuổi, được tự do tham gia các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch. Không những thế, quyền tham gia còn hàm ý trẻ em được đóng góp ý kiến và được lắng nghe trong quá trình ra quyết định của người lớn liên quan đến việc vui chơi, giải trí của trẻ em.

3. Một số nguyên nhân chính và vấn đề cần đặt ra

Sự ra đời, tồn tại của ca khúc có nội dung, ca từ dung tục, lệch lạc phần nào phản ánh cái nhìn sai lệch của một bộ phận giới trẻ, không ý thức được bản thân (kể cả người làm nhạc và người nghe nhạc)… Vì thế, cần kiên quyết loại bỏ loại ca khúc này, để âm nhạc thật sự được tồn tại như vốn có là đẹp từ giai điệu, nội dung đến ca từ.

Một trong các nguyên nhân để hiện tượng “nhạc rác” phổ biến, được quan tâm là sự nở rộ của mạng xã hội; sự dễ dàng trong phát hành sản phẩm, lỗ hổng trong quản lý. Trước đây, để phát hành một ca khúc, nghệ sĩ phải nộp hồ sơ lên hội đồng xét duyệt, cấp giấy phép rồi mới được phổ biến tới công chúng. Còn hiện tại, cá nhân nào cũng có thể tự do thu âm, sản xuất MV và phát hành trên các nền tảng mạng xã hội như Tiktok, Youtube. Đó là các nền tảng xuyên biên giới, khó quản lý và thiếu sự kiểm duyệt về nội dung. Và kiểm duyệt thường xảy ra sau khi ca khúc đã phổ biến rộng rãi. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe cũng khiến không ít ca sĩ bất chấp các quy định.

Một nguyên nhân khác là người dùng mạng xã hội phần lớn là giới trẻ – đối tượng thích thử những “trend” độc lạ nhưng chưa đủ kiến thức, nhận thức để phân biệt ranh giới giữa nghệ thuật với sự dung tục. Và đã có sự ngộ nhận về sáng tạo, khi một số tác giả âm nhạc trẻ biện hộ rằng họ tiếp nhận, chịu ảnh hưởng từ trào lưu âm nhạc Âu – Mỹ.

Để phòng ngừa và ngăn chặn hành vi làm, phát tán sản phẩm âm nhạc có nội dung kích động, bạo lực và tình dục, cổ suý tự vẫn, cần đặt ra một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, cần sự quyết liệt vào cuộc của các cơ quan quản lý trong việc siết chặt hoạt động phổ biến, phát tán sản phẩm âm nhạc lên các nền tảng mạng xã hội; thực hiện nghiêm quy định hiện hành về xử phạt vi phạm.

Như Điều 3, Nghị định 144/2020/NĐ-CP quy định cấm trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, gồm:

“1. Chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…

4. Sử dụng trang phục, từ ngữ, âm thanh, hình ảnh, động tác, phương tiện biểu đạt, hình thức biểu diễn hành vi trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, tác động tiêu cực đến đạo đức, sức khỏe cộng đồng và tâm lý xã hội”.

Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 13, Nghị định 38/2021/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo cũng đã nêu rất rõ hình thức xử phạt. Cụ thể, quy định phạt tiền từ 30 đến 40 triệu đồng đối với hành vi lưu hành bản ghi âm, ghi hình có nội dung kích động bạo lực; ảnh hưởng xấu đến quan hệ đối ngoại; sử dụng trang phục, từ ngữ, âm thanh, hình ảnh, động tác, phương tiện biểu đạt, hình thức biểu diễn hành vi trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; tác động tiêu cực đến đạo đức, sức khỏe cộng đồng, tâm lý xã hội[5].

Thứ hai, về lâu dài, cần tội phạm hoá bằng việc quy định những hàng vi bị cấm này vào Bộ luật Hình sự nhằm tăng khả năng răn đe cũng như tránh ảnh hưởng đến công chúng và các nghệ sĩ chân chính.

Mô hình tội phạm hoá:

Chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công công…

Mục 4. Các tội phạm khác xâm phạm trật tự công cộng.

Điều 326a. Tội phát tán tác phẩm âm nhạc có nội dung kích động

1. Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến file ghi âm, clip, video âm nhạc hoặc những vật phẩm khác có nội dung kích động bạo lực, tình dục, tự vẫn hoặc hành vi khác truyền bá vật phẩm kích động thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) File ghi âm, clip video phát tán trên mạng thông tin đại chúng;

b) File video có số lượng ảnh lớn có nội dung kích động bạo lực, tình dục, tự vẫn;

đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

Thứ ba, các cơ quan chức năng cần phối hợp với các nền tảng xuyên biên giới, rà soát và gỡ bỏ các sản phẩm “nhạc rác”, có nội dung độc hại; đưa ra biện pháp tiền kiểm thay vì hậu kiểm, tránh tình trạng chỉ tới khi phát hiện sản phẩm không phù hợp và dư luận bức xúc mới đưa ra hình thức xử phạt; có hình thức xử lý mạnh tay và kiên quyết khi người dùng báo cáo vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng…

Thứ tư, cùng với biện pháp cần thiết của cơ quan quản lý, công chúng cũng chính là người giám sát hiệu quả nhất. Bởi thế, công chúng cần tự trang bị “bộ lọc” cần thiết cho bản thân bằng cách lựa chọn ca khúc lành mạnh; có thái độ dứt khoát tẩy chay, không chấp nhận sản phẩm âm nhạc “lỗi”, ca từ cổ vũ lối sống lệch lạc lại trở thành bình thường trong sinh hoạt âm nhạc đại chúng.

Thứ năm, học hỏi các nền âm nhạc trên thế giới là cần thiết nhưng phải có sự chọn lọc, bảo đảm thích ứng, phát triển nhưng phù hợp truyền thống văn hóa dân tộc, không thể hễ thấy bên ngoài làm thế nào là làm theo thế đó. Chúng ta không kỳ thị, ngăn cấm, nhưng cần tiếp nhận, biến đổi rap một cách lành mạnh, phù hợp chuẩn mực văn hóa xã hội, thuần phong mỹ tục. Nói cách khác, cần sáng tạo trên nguyên tắc sản phẩm âm nhạc được đưa ra phải luôn mang lại ý nghĩa tích cực cho đời sống và công chúng.

[1] Minh Anh “Loại bỏ các sản phẩm âm nhạc độc hại” Báo Nhân dân ngày 26/10/2021.

[2] Vũ Thị Phượng – Khoa Luật – Trường Đại học Công Đoàn, Bảo vệ quyền trẻ em bằng pháp luật và chung tay của nhiều chủ thể, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 01/10/2017.

[3] Minh Anh “Loại bỏ các sản phẩm âm nhạc độc hại” Báo Nhân dân ngày 26/10/2021.

[4] Xem Vũ Thị Phượng, Khoa Luật – Trường Đại học Công Đoàn, Bảo vệ quyền trẻ em bằng pháp luật và chung tay của nhiều chủ thể, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 01/10/2017.

[5] Minh Anh “Loại bỏ các sản phẩm âm nhạc độc hại” Báo Nhân dân ngày 26/10/2021.

NGUYỄN PHƯƠNG THẢO – NGÔ NGỌC DIỄM

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *