Trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành và gây tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống, kinh tế – xã hội trên phạm vi toàn cầu, vấn đề phòng chống dịch và xử lý các hành vi vi phạm quy định về phòng, chống dịch bệnh lại được đặt lên hàng đầu. Luật sư Ngô Ngọc Diễm – Công ty Luật ThinkSmart đã có một số chia sẻ về các quy định pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới nhằm chống lại, giảm bớt những tác động tiêu cực của dịch bệnh, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc ban hành các quy định pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống dịch bệnh ở Việt Nam. Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Luật sư Việt Nam ngày 20/09/2021.
Luật sư Việt Nam » Kinh nghiệm – Thực tiễn » Trao đổi – Ý kiến » Pháp luật bốn phương
(LSVN) – Bài viết này nhằm làm rõ quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới về xử lý hành vi vi phạm về phòng, chống dịch bệnh. Từ dó, rút ra những bài học, kinh nghiệm trong việc ban hành các quy định pháp luật ở Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống dịch bệnh Covid-19.
Ảnh minh họa.
Quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi vi phạm về phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm
Ở Việt Nam, hiện nay trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định đối với một số hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống truyền nhiễm, cụ thể:
– Hành vi đưa thông tin không đúng tình hình dịch bệnh trên mạng Internet có thể bị truy tố theo Điều 288 của BLHS năm 2015 (tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông”).
– Hành vi đầu cơ để thu lợi bất chính đối với mặt hàng liên quan thiết yếu trong việc phòng, chống dịch bệnh như khẩu trang, nước rửa tay sát khuẩn,… trong việc phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm có thể bị truy tố theo Điều 196 BLHS năm 2015 (tội “Đầu cơ”).
Quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (Luật số 03/2007/QH12 ngày 21/11/2007), theo đó, phân loại bệnh truyền nhiễm gồm có 03 nhóm (Nhóm A, Nhóm B, Nhóm C; Bộ trưởng Bộ Y tế quyết định điều chỉnh, bổ sung danh mục bệnh truyền nhiễm thuộc các nhóm này), cụ thể:
– Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A bao gồm bệnh bại liệt; bệnh cúm A-H5N1; bệnh dịch hạch; bệnh đậu mùa; bệnh sốt xuất huyết do virus Ê-bô-la (Ebola), Lát-sa (Lassa) hoặc Mác-bớc (Marburg); bệnh sốt Tây sông Nin (Nile); bệnh sốt vàng; bệnh tả; bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do virus và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh;
– Nhóm B gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B bao gồm bệnh do virus A-đê-nô (Adeno); bệnh do virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); bệnh bạch hầu; bệnh cúm; bệnh dại; bệnh ho gà; bệnh lao phổi; bệnh do liên cầu lợn ở người; bệnh lỵ A-míp (Amibe); bệnh lỵ trực trùng; bệnh quai bị; bệnh sốt Đăng gơ (Dengue), sốt xuất huyết Đăng gơ (Dengue); bệnh sốt rét; bệnh sốt phát ban; bệnh sởi; bệnh tay-chân-miệng; bệnh than; bệnh thủy đậu; bệnh thương hàn; bệnh uốn ván; bệnh Ru-bê-ôn (Rubeon); bệnh viêm gan virus; bệnh viêm màng não do não mô cầu; bệnh viêm não virus; bệnh xoắn khuẩn vàng da; bệnh tiêu chảy do virus Rô-ta (Rota);
– Nhóm C gồm các bệnh truyền nhiễm ít nguy hiểm, khả năng lây truyền không nhanh. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm C bao gồm bệnh do Cờ-la-my-đi-a (Chlamydia); bệnh giang mai; các bệnh do giun; bệnh lậu; bệnh mắt hột; bệnh do nấm Can-đi-đa-an-bi-căng (Candida albicans); bệnh Nô-ca-đi-a (Nocardia); bệnh phong; bệnh do virus Xi-tô-mê-ga-lô (Cytomegalo); bệnh do virus Héc-péc (Herpes); bệnh sán dây; bệnh sán lá gan; bệnh sán lá phổi; bệnh sán lá ruột; bệnh sốt mò; bệnh sốt do Rích-két-si-a (Rickettsia); bệnh sốt xuất huyết do virus Han-ta (Hanta); bệnh do Tờ-ri-cô-mô-nát (Trichomonas); bệnh viêm da mụn mủ truyền nhiễm; bệnh viêm họng, viêm miệng, viêm tim do virus Cốc-xác-ki (Coxsakie); bệnh viêm ruột do Giác-đi-a (Giardia); bệnh viêm ruột do Vi-bờ-ri-ô Pa-ra-hê-mô-ly-ti-cút (Vibrio Parahaemolyticus) và các bệnh truyền nhiễm khác.
Quy định tại Điều 8 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm thì những hành vi bị nghiêm cấm gồm: Cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm; người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm và người mang mầm bệnh truyền nhiễm làm các công việc dễ lây truyền tác nhân gây bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật; che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật; cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm; phân biệt đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm; không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật này; không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Theo Điều 1 Nghị định số 101/2010/NĐ-CP ngày 30/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về áp dụng biện pháp cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế và chống dịch đặc thù trong thời gian có dịch gồm có: Áp dụng các biện cách ly y tế tại nhà; biện pháp cách ly tại cơ sở y tế; biện pháp cách ly y tế tại cửa khẩu; biện pháp cách ly y tế tại các cơ sở, địa điểm khác áp dụng với các trường hợp cụ thể.
Nghị định số 103/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về bảo đảm an toàn sinh học tại phòng xét nghiệm có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, thay thế Nghị định số 92/2010/NĐ-CP ngày 30/8/2010: Nghị định này quy định về điều kiện bảo đảm an toàn sinh học tại cơ sở có phòng xét nghiệm làm việc với vi sinh vật có nguy cơ gây bệnh truyền nhiễm cho người và các mẫu bệnh phẩm có khả năng chứa vi sinh vật có nguy cơ gây bệnh truyền nhiễm cho người của tổ chức, cá nhân (sau đây gọi tắt là cơ sở xét nghiệm), gồm: Phân loại vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm và cơ sở xét nghiệm theo cấp độ an toàn sinh học; điều kiện bảo đảm an toàn sinh học tại cơ sở xét nghiệm; thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp mới, cấp lại, thu hồi Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn an toàn sinh học và công bố cơ sở xét nghiệm đạt tiêu chuẩn an toàn sinh học; kiểm tra an toàn sinh học; phòng ngừa, xử lý và khắc phục sự cố an toàn sinh học.
Nghị định số 89/2018/NĐ-CP ngày 25/6/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về kiểm dịch y tế biên giới có hiệu lực kể từ ngày 10/8/2018 và thay thế Nghị định số 103/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010: Nghị định này quy định về thu thập thông tin, khai báo y tế, kiểm tra y tế, xử lý y tế đối với người, phương tiện vận tải nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh Việt Nam và thi thể, hài cốt (bao gồm cả tro cốt), mẫu vi sinh y học, sản phẩm sinh học, mô, bộ phận cơ thể người vận chuyển qua biên giới Việt Nam; giám sát, kiểm soát bệnh truyền nhiễm tại cửa khẩu; tổ chức kiểm dịch y tế biên giới và trách nhiệm trong việc thực hiện kiểm dịch y tế biên giới.
Thông tư số 17/2019/TT-BYT ngày 17/7/2019 của Bộ Y tế hướng dẫn giám sát và đáp ứng với bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2019 thay thế Thông tư số 13/2013/TT-BYT ngày 17/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc hướng dẫn giám sát bệnh truyền nhiễm: Thông tư này hướng dẫn giám sát bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm; đáp ứng với bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm; trách nhiệm trong tổ chức thực hiện giám sát và đáp ứng với bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm. Theo đó, đối tượng giám sát bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm gồm: Người mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm và người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm; tác nhân gây bệnh truyền nhiễm; ổ chứa, trung gian truyền bệnh truyền nhiễm và các yếu tố nguy cơ.
Đối với người mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm, các nội dung giám sát gồm: (1) Họ và tên, tuổi, giới, nghề nghiệp, điện thoại liên lạc, địa chỉ nơi sinh sống, nơi học tập, làm việc; địa điểm và thời gian mắc, khởi phát bệnh; diễn biến bệnh, triệu chứng, chẩn đoán và quá trình điều trị, cơ sở y tế chăm sóc, điều trị trước khi mắc bệnh; thông tin về xét nghiệm khẳng định tác nhân gây bệnh phù hợp; tiền sử sản khoa, tiền sử tiêm chủng vaccine phòng bệnh và tình trạng miễn dịch, tiền sử đi lại trong và ngoài nước, các thông tin về tiền sử phơi nhiễm, tiếp xúc và yếu tố dịch tễ liên quan; (2) Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa điểm giám sát: mức sống, lối sống, điều kiện sống, phong tục tập quán, cơ cấu dân cư, cơ cấu dân tộc, cơ cấu bệnh tật; địa lý, khí hậu, thời tiết bao gồm: khu vực địa dư, mùa, nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, hướng gió và các yếu tố nguy cơ khác.
Quy định của một số nước trên thế giới về bệnh truyền nhiễm và xử lý vi phạm về phòng, chống bệnh truyền nhiễm
Nhật Bản
Nhận thức được mức độ nguy hiểm của các bệnh truyền nhiễm đối với đời sống người dân, ngay từ năm 1998, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Luật Phòng chống các bệnh truyền nhiễm và chăm sóc y tế cho bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm với 14 Chương tương đối đầy đủ và hệ thống, 81 điều luật cùng 01 điều khoản bổ sung, trong đó chương XIV trực tiếp liên quan đến việc xử lý hình sự các tội phạm về phòng, chống các bệnh truyền nhiễm, cụ thể:
– Điều 67 đến Điều 72 Luật này quy định mức phạt tù và phạt tiền đối với các hành vi vi phạm của đối tượng bị nghi ngờ hoặc bị nhiễm bệnh truyền nhiễm, bao gồm: Hành vi làm lây lan bệnh truyền nhiễm, hành vi không thực hiện việc cách ly, giám sát y tế khi có dấu hiệu nghi ngờ hoặc bị nhiễm các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm I, nhóm II gây nguy hiểm cho cộng đồng. Mức phạt tù cao nhất trong các quy định này là tù chung thân và mức phạt tiền tối đa là 10 triệu Yên.
– Điều 73: Quy định chế tài đối với hành vi tiết lộ thông tin y tế của bệnh nhân bị nhiễm bệnh để lợi dụng trục lợi hoặc vì mục đích không tốt của đối tượng là người điều trị cho bệnh nhân bị nhiễm bệnh truyền nhiễm, theo đó phạt tù tối đa là 01 năm và mức phạt tiền tối đa là 01 triệu Yên.
– Điều 74 đến 77: Quy định chế tài đối với hành vi của đối tượng biết về trường hợp nghi ngờ hoặc mắc bệnh truyền nhiễm nhưng che giấu, không khai báo thông tin hoặc khai báo sai thông tin cho cán bộ nhà nước có thẩm quyền, theo đó phạt tù tối đa là 01 năm và mức phạt tiền tối đa là 03 triệu Yên.
– Điều 79: Quy định thêm cho đối tượng là tổ chức có người đại diện, nhân viên hoặc người lao động của tổ chức đó thực hiện các hành vi phạm tội mà có liên quan đến tổ chức thì cả người thực hiện hành vi và cả tổ chức đó đều phải chịu hình phạt tiền, qua đó cho thấy quy phạm này đã tiên liệu được phạm vi chủ thể phạm tội rất rộng, hạn chế tối đa việc bỏ lọt tội phạm.
Hoa Kỳ
Theo thông tin của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), pháp luật về việc xử lý vi phạm đối với việc cách ly ở mỗi bang là khác biệt và hầu hết được xem là phạm tội hình sự.
Ví dụ, Luật Sức khỏe và an toàn ban hành năm 2015 (sửa đổi, bổ sung mới nhất vào năm 2017) của bang California tại Điều 120.290 HS cũng quy định về trách nhiệm hình sự đối với người cố ý làm lây lan bệnh truyền nhiễm.
Theo đó vừa quy định về khái niệm “bệnh truyền nhiễm”, vừa đưa ra liệt kê các hành vi cấu thành tội cố ý làm lây lan bệnh truyền nhiễm cũng như chế tài đối với hành vi này. Phần a mục 1, mục 2 của Luật này quy định các hành vi cấu thành tội phạm như sau: Biết bản thân hoặc người thứ ba bị mắc bệnh truyền nhiễm nhưng vẫn cố ý thực hiện việc lây truyền bệnh truyền nhiễm cho người khác hoặc cố ý để người thứ ba bị mắc bệnh truyền nhiễm lây bệnh cho người khác; và cố ý không tuân thủ hướng dẫn cách ly, hạn chế lây lan bệnh truyền nhiễm của nhân viên y tế trong vòng 96 giờ kể từ khi được hướng dẫn.
Chế tài hình sự đối với các hành vi nêu trên là phạt tù, tuy nhiên so với các bang khác, mức phạt tù theo Luật này của bang California là mức thấp nhất (tối đa 06 tháng, tương tự như bang Michigan).
Úc
Tại Úc, tương tự như Hoa Kỳ, luật pháp ở từng bang có quy định khác nhau về việc xử lý vi phạm về việc cách ly.
Ví dụ, tại bang New South Wales, mức phạt tối đa lên đến 11.000 Đô-la hoặc 06 tháng tù giam, ít hơn so với bang South Australia, theo đó mức phạt tiền tối đa cho hành vi trốn cách ly là 25.000 Đô-la và phạt tù tối đa là 12 tháng (đang dự kiến nâng lên 10 năm).
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, các hình thức trách nhiệm pháp lý được quy định theo ngành luật (luật hình sự, luật dân sự, luật hành chính). Bộ luật Hình sự năm 1997 của Trung Quốc quy định các tội phạm theo nhóm, trong đó có nhóm tội phạm xâm phạm đến sức khỏe công cộng bao gồm 8 tội liên quan đến phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm (Mục 5 Chương 6). Theo đó, những người vi phạm thậm chí có thể phải đối mặt với án tử hình.
Điều 330 Bộ luật này quy định người nào vi phạm các quy định của Luật Phòng, chống và điều trị các bệnh truyền nhiễm và thực hiện 01 trong 05 hành vi liệt kê tại Điều này gây ra hậu quả làm lây lan hoặc tạo nguy cơ lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A sẽ bị phạt tù không quá 03 năm hoặc từ 03 năm đến 07 năm, nếu hậu quả nghiêm trọng. Các hành vi vi phạm được nêu cụ thể như từ chối xử lý khử trùng nước thải, chất ô nhiễm, phân và nước tiểu bị ô nhiễm bởi mầm bệnh của các bệnh truyền nhiễm theo các yêu cầu vệ sinh của các cơ quan kiểm soát dịch bệnh, từ chối thực hiện các biện pháp phòng, chống và kiểm soát do các cơ quan kiểm soát dịch bệnh và vệ sinh đặt ra theo Luật Phòng, chống và điều trị các bệnh truyền nhiễm,…
Hàn Quốc
Khác với các quốc gia khác, có nhiều đạo luật khác nhau liên quan đến các bệnh truyền nhiễm ở Hàn Quốc bao gồm: Luật Phòng chống và kiểm soát bệnh truyền nhiễm; Luật Phối hợp để cách ly và giám sát; Luật Y tế công cộng khu vực (trong đó điều chỉnh cụ thể việc phối hợp giữa các trung tâm y tế cộng đồng và chính quyền địa phương); Luật Dược phẩm; Luật Dịch vụ y tế hay Luật Dịch vụ y tế khẩn cấp về các cơ sở kiểm dịch.
Cũng chính vì sự đa dạng về số lượng của các đạo luật này mà đòi hỏi cần có một đạo luật tổng hợp, thống nhất để dễ dàng tuân thủ và đảm bảo ngăn ngừa, kiểm soát được các bệnh truyền nhiễm.
Cuối tháng 3/2020, các nhà lập pháp Hàn Quốc đã thông qua đạo luật phòng, chống lây lan dịch bệnh, trong đó mức phạt tối đa cho người vi phạm quy định về cách ly là 01 năm tù hoặc 10 triệu won (tương đương khoảng 8.200 USD).
Liên bang Nga
Gần đây nhất vào ngày 01/4/2020, cơ quan lập pháp Liên bang Nga đã thông qua quy định mới tại Điều 207.2 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga về tội “Phát tán sai lệch thông tin xã hội” (như thông tin về dịch bệnh Covid-19) gây hậu quả nghiêm trọng. Theo đó có thể bị phạt tiền lên tới 700.000 RUB (tương đương khoảng 9.000 USD) đối với cá nhân hoặc 2 triệu RUB (tương đương khoảng 26.000 USD) đối với pháp nhân, đồng thời có thể bị phạt tù đến 05 năm. Một thanh niên 26 tuổi tại Nga đã bị phạt ở mức tương tự khi bình luận vào một báo cáo với thông tin 01 người đã chết do dịch bệnh Covid-19 tại một bệnh viện.
Như vậy, nhìn chung, hầu hết các quốc gia nói trên (ngoại trừ Liên bang Nga và Trung Quốc) đều quy định chế tài hình sự xử lý các hành vi phạm tội liên quan đến phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong luật chuyên ngành về y tế/sức khỏe công cộng hoặc về phòng, chống các dịch bệnh truyền nhiễm thay vì chỉ quy định trong Bộ luật Hình sự. Xét về cấu trúc các quy phạm pháp luật cụ thể thì đều gồm hai thành phần là giả định và chế tài, theo đó mỗi hành vi vi phạm đều được quy định thành điều luật riêng với mức phạt tiền và phạt tù khác nhau tương ứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó gây ra. Pháp luật của một số nước (Nhật Bản, Liên bang Nga) cũng quy định chế tài hình sự khác nhau cho hai chủ thể là cá nhân và pháp nhân, trong đó pháp nhân phải chịu hình thức chế tài là phạt tiền (cao hơn so với cá nhân).
Luật sư NGÔ NGỌC DIỂM
Công ty Luật ThinkSmart