Người có hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác gây thiệt hại hoặc tài sản người đó sở hữu, chiếm hữu gây thiệt hại cho tài sản của người khác, thì có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Mức bồi thường thiệt hại được xác định dựa trên thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
– Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
– Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
– Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
– Thiệt hại khác do luật quy định.
(Căn cứ: Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015)
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng
Các bên được quyền tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại do tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. Trường hợp các bên không thỏa thuận được, thì xác định thiệt hại như sau:
– Đối với tài sản là vật:
+ Trường hợp tài sản bị hư hỏng mà có thể sửa chữa được: thiệt hại được xác định là chi phí để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng tài sản trước khi bị hư hỏng theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường.
+ Trường hợp tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng mà không thể sửa chữa được: thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng và mức độ hao mòn của tài sản bị mất, bị hủy hoại tại thời điểm giải quyết bồi thường.
– Đối với tài sản là tiền: Thiệt hại được xác định là số tiền bị mất, bị hư hỏng.
– Đối với tài sản là giấy tờ có giá:
+ Trường hợp giấy tờ có giá bị mất, bị hư hỏng mà có thể khôi phục được thì thiệt hại được xác định là các chi phí cần thiết để khôi phục các giấy tờ đó.
+ Trường hợp bị mất, bị hư hỏng mà không thể khôi phục được thì thiệt hại được xác định là giá trị của các giấy tờ bị mất, bị hư hỏng tại thời điểm giải quyết bồi thường.
(Căn cứ: khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP)
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút
Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút là hoa lợi, lợi tức mà người bị thiệt hại đang hoặc sẽ thu được nếu tài sản không bị mất, bị hư hỏng.
Hoa lợi, lợi tức được tính theo giá thực tế đang thu, nếu chưa thu thì theo giá thị trường cùng loại hoặc mức giá thuê trung bình 01 tháng của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiệt hại; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê, hoa lợi, lợi tức được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của 03 tháng liền kề do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra.
(Căn cứ: khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP)
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại quy định là những chi phí thực tế, cần thiết tại thời điểm chi trong điều kiện bình thường cho việc áp dụng các biện pháp cần thiết làm cho thiệt hại không phát sinh thêm; sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm phạm.
Ví dụ: T đã có hành vi làm cháy nhà của H. Chi phí dập tắt đám cháy là X đồng; chi phí sửa chữa, khôi phục lại nhà như tình trạng ban đầu là Y đồng. Trường hợp này, X đồng là chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Y đồng là chi phí khắc phục thiệt hại.
(Căn cứ: khoản 3 Điều 6 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP)
4. Thiệt hại khác do luật quy định
Trong vụ việc thuộc lĩnh vực cụ thể, có thể có những thiệt hại khác về tài sản mà cần xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ, mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định như sau:
– Thiệt hại về vật chất: Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:
+ Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;
+ Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;
+ Thiệt hại vật chất theo các cách tính khác do chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp luật;
+ Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ trên thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá 500 triệu đồng.
– Thiệt hại về tinh thần: Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại.
– Chí phí luật sư: Ngoài khoản bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
(Căn cứ: Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ)
Kết luận
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm là căn cứ để xác định mức bồi thường thiệt hại. Việc xem xét, xác định đầy đủ các thiệt hại sẽ giúp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, bù đắp đầy đủ những tổn thất mà họ gặp phải.
Để thuận tiện cho việc tra cứu, bạn có thể tham khảo sơ đồ mà chúng tôi tổng hợp sau đây:
Bạn đang quan tâm đến xác định mức bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, kết nối với Chuyên gia/Luật sư của chúng tôi qua hotline 0911.796.555 để được tư vấn, hỗ trợ nhanh chóng.