ĐỒNG PHẠM TRONG VỤ ÁN DO PHÁP NHÂN THỰC HIỆN TỘI PHẠM

Luận bàn về đồng phạm trong vụ án do pháp nhân thực hiện tội phạm có hai quan điểm chính: pháp nhân là chủ thể của trách nhiệm hình sự (TNHS) hoặc pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Mỗi quan điểm đều có những cơ sở lý luận và thực tiễn riêng, dẫn đến cách giải quyết vấn đề đồng phạm khác nhau.

dong pham1. Quan điểm pháp nhân chỉ là chủ thể của TNHS

  • Quan điểm pháp nhân chỉ là chủ thể của TNHS được lập luận dựa trên các căn cứ khoa học sau:

Một là, TNHS của cá nhân và pháp nhân khác nhau. TNHS của cá nhân phát sinh từ hành vi phạm tội, còn TNHS của pháp nhân phát sinh từ mối quan hệ đặc biệt với cá nhân thực hiện tội phạm (được cụ thể hóa thành các điều kiện phải chịu TNHS).

Hai là, chỉ có một hệ thống quy định về tội phạm đối với cá nhân; đối với pháp nhân chỉ có các quy định về điều kiện và nội dung chịu TNHS. Tội phạm mà pháp nhân phải chịu TNHS là do cá nhân thực hiện. Pháp nhân chỉ là chủ thể của TNHS, không phải chủ thể của tội phạm.

  • Điều kiện pháp nhân chịu TNHS:

Một là, tội phạm là hành vi cố ý không thực hiện nghĩa vụ quy định trực tiếp cho pháp nhân. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội chỉ có thể do người có trọng trách nhất của pháp nhân thực hiện. Tính chất của tội phạm đã phản ánh quan hệ đặc biệt giữa tội phạm và người thực hiện tội phạm với pháp nhân. Ví dụ: một công ty cố ý không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, hành vi này do giám đốc công ty trực tiếp chỉ đạo. Công ty phải chịu TNHS cho hành vi không thực hiện nghĩa vụ của mình.

Hai là, tội phạm do cá nhân nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân. Việc xác định TNHS pháp nhân theo thuyết đồng hóa trách nhiệm. “Nhân danh pháp nhân” có thể là trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện hành vi phạm tội. “Vì lợi ích của pháp nhân” đòi hỏi hành vi đó đem lại hoặc nhằm đem lại lợi ích cho pháp nhân. Ví dụ: Giám đốc một công ty môi trường chỉ đạo nhân viên đổ chất thải độc hại ra môi trường để tiết kiệm chi phí, làm tăng lợi nhuận cho công ty. Hành vi này được thực hiện nhân danh và vì lợi ích của công ty, do đó công ty phải chịu TNHS.

Ba là, hành vi của pháp nhân đã phạm tội khi thực hiện công việc được pháp nhân giao và có lỗi của pháp nhân. Việc quy định TNHS trong trường hợp này theo thuyết văn hóa pháp nhân. Ví dụ: Một công ty sản xuất thực phẩm có văn hóa quản lý lỏng lẻo, không kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào, dẫn đến sản xuất sản phẩm không đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm gây ngộ độc cho người tiêu dùng. Mặc dù không có chỉ đạo trực tiếp, nhưng lỗi của pháp nhân trong việc duy trì văn hóa tuân thủ pháp luật khiến công ty phải chịu TNHS.

Theo cách tiếp cận này, khi pháp nhân không là chủ thể tội phạm, thì pháp nhân không thể là một bên liên kết cùng cố ý thực hiện tội phạm. Do đó, không có pháp nhân trong vụ án đồng phạm mà chỉ có vấn đề TNHS của pháp nhân trong vụ án đồng phạm. TNHS của pháp nhân được xác định để truy cứu TNHS của pháp nhân gắn với hành vi của nhiều cá nhân đồng phạm với nhau hoặc nhiều cá nhân mà họ không đồng phạm với nhau. Trong trường hợp thứ hai, có thể xảy ra khả năng mỗi hành vi của cá nhân không đủ cấu thành tội phạm, nhưng tổng hợp các hành vi của họ lại đủ mức độ khách quan của tội phạm để truy cứu TNHS của pháp nhân.

Tuy nhiên, tiếp cận quan điểm pháp nhân là chủ thể của TNHS cũng đặt ra một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết về cơ sở TNHS của pháp nhân trong vụ án đồng phạm. Theo đó, nếu pháp nhân chỉ là chủ thể của TNHS mà không phải chủ thể của tội phạm, TNHS của pháp nhân sẽ không có cơ sở vật chất là hành vi phạm tội của chủ thể. Điều này mâu thuẫn với quan niệm truyền thống về cơ sở của TNHS bao gồm cơ sở vật chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể và cơ sở pháp lý là cấu thành tội phạm.

2. Quan điểm pháp nhân là chủ thể của tội phạm

Quan điểm này tiếp cận trường hợp chủ thể của tội phạm là pháp nhân. Pháp nhân được hình thành nên bởi sự kết hợp của nhiều thể nhân và hành vi phạm tội của pháp nhân được thực hiện thông qua một hoặc nhiều cá nhân cụ thể

Cơ sở lý luận của quan điểm này dựa trên quy định tại khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự hiện hành “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu TNHS”, và Điều 8 quy định khái niệm tội phạm bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội do “pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”. Như vậy, theo các quy định này, cá nhân cũng như pháp nhân đều thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý và vô ý, do đó có hai chủ thể khác nhau thực hiện tội phạm là cá nhân và pháp nhân thương mại.

Về quan điểm hành vi phạm tội của thể nhân là của pháp nhân, trong nền khoa học pháp lý ghi nhận ba học thuyết chính:

Một là, thuyết trách nhiệm thay thế (Theory of Vicarious liability): Bất cứ điều gì người lao động, người đại diện cho pháp nhân thực hiện trên cơ sở mối quan hệ giữa tổ chức với người lao động đều được coi là của chính tổ chức thực hiện. Học thuyết này thường không được chấp nhận rộng rãi vì quá rộng và vi phạm nguyên tắc lỗi cá nhân.

Hai là, thuyết văn hóa (Theory of Culture): Yêu cầu có hành vi phạm tội của nhân viên pháp nhân trong phạm vi chức năng, thẩm quyền được giao, và thông qua văn hóa pháp nhân cho thấy nhân viên nhận thức được pháp nhân đã chỉ đạo, ủng hộ, hoặc không phản đối hành vi đó, hoặc có lỗi trong việc không duy trì văn hóa tuân thủ pháp luật. Học thuyết này bị hạn chế do việc chứng minh văn hóa pháp nhân phức tạp.

Ba là, thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm (Theory of Identification liability). Đa số các nhà khoa học ủng hộ việc thiết lập TNHS của pháp nhân như chính hành vi của cá nhân. Học thuyết này đồng nhất hóa hành vi, lỗi của người quản lý, chỉ đạo, điều hành pháp nhân (thể nhân đại diện) với hành vi, lỗi của pháp nhân.

So sánh với các quy định đã phân tích ở trên, Bộ luật Hình sự Việt Nam đang áp dụng thuyết đồng hóa trách nhiệm và đưa ra bốn điều kiện truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại:

Một là, hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại. Do một cá nhân hoặc nhiều cá nhân thực hiện nhân danh pháp nhân, không phải nhân danh cá nhân. Chỉ những người đại diện pháp nhân (theo pháp luật hoặc ủy quyền) mới có quyền này.

Hai là, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại: Nhằm mang lại lợi ích vật chất, tinh thần hoặc lợi thế nhất định cho pháp nhân, hoặc có mục đích hướng tới lợi ích đó, kể cả khi chưa nhận được lợi ích thực tế.

Ba là, hành vi phạm tội có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Phản ánh dấu hiệu “lỗi” của pháp nhân thông qua ý thức chủ quan của người đứng đầu hoặc ban lãnh đạo pháp nhân. Họ phải nhận thức được hành vi trái pháp luật mà vẫn chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận.

Bốn là, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS: Giống như cá nhân, hành vi của pháp nhân cũng phải còn thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 Bộ luật Hình sự

Các trường hợp đồng phạm trong vụ án do pháp nhân thực hiện theo quan điểm này bao gồm:

Một là, Pháp nhân và cá nhân (hoặc pháp nhân khác) cùng cố ý thực hiện tội phạm. Nếu hai pháp nhân hoặc một pháp nhân và một cá nhân (không đại diện pháp nhân) cùng có chung ý chí, hành động, họ là đồng phạm của nhau. Các quy định về đồng phạm của thể nhân được áp dụng đối với pháp nhân.

Ví dụ: Hai công ty A và B cùng thống nhất làm giả giấy tờ để chiếm đoạt tài sản. Công ty A thông qua giám đốc của mình, và công ty B thông qua giám đốc của mình cùng thực hiện hành vi lừa đảo. Cả hai công ty A, B và hai giám đốc đều là đồng phạm. Giám đốc công ty A là người thực hành, thì công ty A cũng là người thực hành.

          Pháp nhân và cá nhân là người của pháp nhân cùng cố ý thực hiện tội phạm. Quan hệ đồng phạm giữa pháp nhân và cá nhân là người của pháp nhân chỉ phát sinh khi hai chủ thể này độc lập với nhau, tức là hành vi của cá nhân đó không đồng nhất với hành vi của pháp nhân (cá nhân đó không thỏa mãn các điều kiện để quy kết cho pháp nhân).

Ví dụ: Một công ty (thông qua Giám đốc) chỉ đạo sản xuất hàng giả, và một nhân viên phòng kế hoạch (không phải là người đại diện) của công ty biết rõ về hành vi này nhưng vẫn cố ý giúp sức bằng cách lập các hóa đơn chứng từ giả để che giấu. Công ty và nhân viên phòng kế hoạch là đồng phạm, vì hành vi của nhân viên không đồng nhất với hành vi của pháp nhân.

  •          Ưu điểm của quan điểm pháp nhân là chủ thể của tội phạm

Thứ nhất, thỏa mãn đầy đủ cơ sở TNHS trong đồng phạm. Pháp nhân thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Cơ sở vật chất của TNHS đối với pháp nhân là hành vi phạm tội của pháp nhân, được xác định là hành vi của người đại diện pháp nhân nếu thỏa mãn các điều kiện xác định TNHS cho pháp nhân. Cơ sở pháp lý là cấu thành tội phạm đồng phạm.

Thứ hai, TNHS của pháp nhân trong vụ án đồng phạm. Được xác định trên cơ sở hành vi phạm tội của pháp nhân, bao gồm hành vi của cá nhân hoặc nhóm cá nhân đại diện của pháp nhân cùng cố ý thực hiện với cá nhân/pháp nhân khác. Pháp nhân sẽ tham gia với tư cách người đồng phạm tương ứng với dạng hành vi đồng phạm của cá nhân đại diện (thực hành, tổ chức, xúi giục, giúp sức). TNHS áp dụng đối với cá nhân đại diện và pháp nhân là khác nhau do căn cứ đánh giá và đặc tính của các chủ thể.

Thứ ba, việc pháp nhân chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân. Cá nhân đại diện luôn phải chịu TNHS về cùng tội danh với pháp nhân (trừ trường hợp loại trừ TNHS), và còn phải chịu trách nhiệm về tội phạm chung mà họ cùng cố ý thực hiện với cá nhân/pháp nhân khác.

Thứ tư, vấn đề “lỗi” của pháp nhân phạm tội. Lỗi của pháp nhân được đánh giá về lý trí và ý chí của người đứng đầu hoặc ban lãnh đạo của pháp nhân. Họ phải nhận thức tính nguy hiểm của hành vi và hậu quả, chỉ đạo/điều hành/chấp thuận việc thực hiện tội phạm, và có chung mục đích phạm tội nếu đó là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Điều này giải quyết vấn đề lỗi theo các lý thuyết chung về tội phạm mà không cần áp dụng nguyên tắc quy tội khách quan.

Tiểu kết: Cả hai quan điểm đều có cơ sở lý luận và thực tiễn. Quan điểm pháp nhân chỉ là chủ thể của TNHS đưa ra nhiều luận điểm mới (như quy tội khách quan, TNHS do tội phạm của người khác) và cho rằng không có đồng phạm của pháp nhân mà chỉ có vấn đề TNHS của pháp nhân trong vụ án đồng phạm. Trong khi đó, quan điểm pháp nhân là chủ thể của tội phạm có tính truyền thống hơn và cơ bản không làm thay đổi cơ sở lý luận và nhận thức thực tiễn. Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về cơ bản đã tiếp cận theo quan điểm pháp nhân là chủ thể của tội phạm.

Thực tiễn xét xử tại Việt Nam về các vụ án truy cứu TNHS của pháp nhân còn rất ít, đặc biệt là các vụ án đồng phạm có pháp nhân thương mại. Trong thời gian tới, cần có quy định giải thích hoặc hướng dẫn thống nhất về bản chất của việc quy định TNHS đối với pháp nhân để giải quyết khoa học và hợp pháp vấn đề đồng phạm trong vụ án do pháp nhân phạm tội.

Công ty Luật TNHH Thinksmart

Hotline: 0911 796 555