Giá trị của yếu tố “Lỗi” trong giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2015

Đề tài Giá trị của yếu tố “Lỗi” trong giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2015 do Lê Quang Huy (Trường Đại học Luật Hà Nội) thực hiện.

Nguồn: Tạp chí Công thương

TÓM TẮT: Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2015 đã lược bỏ đi yếu tố lỗi là yếu tố quy định làm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy, một người dù có lỗi hay không có lỗi trong việc phát sinh thiệt hại đều sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cho bên bị thiệt hại? Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung nghiên cứu vào vấn đề: giá trị của yếu tố lỗi trong giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015.

Từ khóa: bồi thường thiệt hại, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Bộ luật Dân sự.

1. Đặt vấn đề

Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, của xã hội, những hiện tượng tiêu cực xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, các cá nhân trong xã hội ngày càng phổ biến hơn. Đó không chỉ dừng ở những hành vi vi phạm thỏa thuận giữa các bên đã giao kết mà còn là hành vi xâm phạm đến tính mạnh, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của tổ chức, cá nhân không có những giao kết nào với nhau mà dẫn đến những thiệt hại thực tế xảy ra. Vấn đề đặt ra là khi không có những giao kết, những điều khoản ngay từ đầu như vậy, thiệt hại thực tế xảy ra phải xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và ai là người sẽ phải có trách nhiệm đó?

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được giải quyết phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật cũng như bảo đảm được sự công bằng không chỉ cho người phải nhận thiệt hại mà với cả những người gây ra thiệt hại. Khác với việc giải quyết tranh chấp khi hai bên đã có những giao kết, những điều khoản nhất định từ trước, khi giải quyết việc bồi thường thiệt hại mà hai bên không có giao kết (hợp đồng) luôn gặp rất nhiều khó khăn về sự hợp tác của các bên do không xuất phát từ sự vi phạm nghĩa vụ được các bên thiết lập từ trước. Do đó, rất nhiều các chủ thể theo bản năng vẫn đưa yếu tố “lỗi” để giải thích, biện hộ nhằm hạn chế những trách nhiệm pháp lý mà họ phải chịu.

Giá trị của yếu tố "Lỗi" trong giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2015

2. Giá trị của yếu tố lỗi trong giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015

2.1. Lỗi là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt

Trước đây, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng bao gồm 26 điều khoản được quy định từ Điều 604 đến Điều 630 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức khi bị xâm phạm trái pháp luật gây thiệt hại về danh dự, uy tín, tài sản, sức khỏe, tính mạng,…

Để có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì phải chứng minh được người gây thiệt hại có “lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý”. Đây là những cơ sở quan trọng để Nhà nước dựa vào đó giải quyết các tranh chấp trong vấn đề BTTH ngoài hợp đồng. Đồng thời, kể từ khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, nhìn chung các quy định trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không chỉ đáp ứng kịp thời quá trình giải quyết BTTH do hành vi trái pháp luật trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) các cấp mà còn mang lại hiệu quả tương đối toàn diện trong việc áp dụng chế tài hay nâng cao ý thức pháp luật của tầng lớp nhân dân.

Khắc phục được những điểm chưa phù hợp, BLDS năm 2015 đã thành công trong việc bảo vệ người bị gây thiệt hại khi chuyển nghĩa vụ chứng minh lỗi sang cho người gây thiệt hại bằng việc không còn đặt ra yêu cầu của yếu tố lỗi bao gồm lỗi cố ý hay vô ý là điều kiện bắt buộc cần có khi xác định một hành vi xâm phạm để làm căn cứ BTTH ngoài hợp đồng nữa. Theo đó, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thực tế có xảy ra hay không sẽ dựa vào 3 yêu cầu: (1) hành vi trái pháp luật, (2) thiệt hại thực tế xảy ra, (3) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra.

Về mặt lý luận, yếu tố lỗi không tồn tại độc lập mà luôn gắn liền với hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật bị coi là có lỗi có thể là hành vi gây thiệt hại hoặc hành vi không quản lý người gây thiệt hại, không quản lý tài sản theo đúng quy định. Hành vi trái pháp luật vốn đã là một trong các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH.

Việc loại bỏ yếu tố lỗi ra khỏi các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm đảm bảo được tính khách quan và bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại một cách tối đa. Trong khi đó theo BLDS 2005, bên bị thiệt hại sẽ phải có trách nhiệm chứng minh bên gây thiệt hại có lỗi đối với thiệt hại xảy ra để hình thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì nay ở Bộ luật Dân sự 2015, chủ thể bị thiệt hại sẽ luôn được bảo vệ quyền lợi và trách nhiệm chứng minh mình không có lỗi để không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được chuyển cho bên gây thiệt hại. Nếu không chứng minh hoặc không chứng minh được mình không có lỗi đối với thiệt hại xảy ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ luôn được hình thành để bảo đảm lợi ích cho bên bị thiệt hại.

Trong BLDS năm 2015, nhà làm luật chỉ ghi nhận cụ thể về 2 trường hợp không có lỗi vẫn phải bồi thường, đó là BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601) và BTTH do làm ô nhiễm môi trường (Điều 602). Tuy nhiên, không nên chỉ dựa vào 2 trường hợp đặc biệt này để khẳng định lỗi không phải là một trong các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Mặc dù BLDS năm 2015 không đề cập đến yếu tố lỗi trong quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH như BLDS năm 2005 nhưng như đã phân tích ở trên, tác giả vẫn cho rằng cần phải nhìn nhận lỗi là yếu tố được suy đoán mà không cần phải chứng minh, đồng thời lỗi vẫn là một trong các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Bởi vì, nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi tức là người gây thiệt hại không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh. Thậm chí, trong một số trường hợp, BLDS năm 2015 còn ghi nhận phải có lỗi mới phải bồi thường. Ví dụ như quy định tại khoản 2 Điều 596: “khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. Theo đó, với quy định này, lỗi của người sử dụng rượu hoặc chất kích thích khác phải là lỗi cố ý mới phải bồi thường.

Như vậy, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một đòi hỏi cấp thiết trong trường hợp thiệt hại xảy ra, do vậy căn cứ xác định trách nhiệm BTTH là một yêu cầu cực kỳ quan trọng. Trong đó, việc đánh giá đúng và chính xác căn cứ làm phát sinh trách nhiệm sẽ cần đến sự quy định rõ ràng của pháp luật, lúc nào cần thiết đánh giá yếu tố lỗi và lúc nào không cần. Hiện nay pháp luật dân sự đều thống nhất yếu tố “lỗi” chỉ thật sự cần thiết để đánh giá khi pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể, đó là các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc “trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không dựa trên yếu tố lỗi” như đã phân tích ở trên.

2.2. Lỗi là căn cứ loại trừ trách nhiệm bồi thường

Theo quy định trước đây tại Điều 604 BLDS năm 2005 và Mục I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngoài 3 điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường là: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; còn có yếu tố lỗi của người gây thiệt hại. Tuy nhiên hiện nay, theo quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015, yếu tố lỗi không còn có ý nghĩa bắt buộc trong việc làm căn cứ để yêu cầu BTTH ngoài hợp đồng, thay vào đó là căn cứ để bên gây thiệt hại có thể được miễn trừ trách nhiệm bồi thường. Theo quy định mới trên, người gây thiệt hại nếu chứng minh được sự việc gây thiệt hại hoàn toàn không xuất phát từ lỗi của họ, sự việc đó có thể do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì họ sẽ không có nghĩa vụ bồi thường.

Như vậy, khi thiệt hại xảy ra, người gây thiệt hại hoặc chủ thể có liên quan khác chỉ được miễn trách nhiệm BTTH khi người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn quy định về căn cứ loại trừ trách nhiệm BTTH liên quan đến yếu tố lỗi trong một trường hợp cụ thể.

Thứ nhất là, trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không phải BTTH trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi vô ý thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phải BTTH. Quy định này cho thấy chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm quản lý ở mức độ cao hơn chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng các loại tài sản khác. Chỉ khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ chứng minh được mình đã quản lý tốt nguồn nguy hiểm cao độ, đồng thời đã ngăn cản người bị hại tiếp xúc nhưng họ vẫn cố tình tiếp cận thì khi đó trách nhiệm BTTH mới được loại trừ. Như vậy, BLDS năm 2015 đã có quy định trong mục những quy định chung và trong một số trường hợp ngoại lệ về căn cứ loại trừ trách nhiệm BTTH liên quan đến yếu tố lỗi.

Thứ hai là, trường hợp gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng (Điều 594 BLDS năm 2015), lúc này người gây thiệt hại buộc phải xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác để bảo vệ quyền lợi của mình hoặc của người khác. Trong trường hợp này, khi xét đến lỗi của các chủ thể thì nguyên nhân khởi đầu gây ra thiệt hại thuộc về người thứ ba hoặc bên bị hại, do đó, bên gây thiệt hại sẽ được miễn trách nhiệm BTTH. Nhưng lưu ý rằng việc phòng vệ này chỉ được coi căn cứ miễn trách nhiệm nếu nó nằm trong hạn mức cho phép, vừa đủ để chống trả trước hành vi xâm phạm của chủ thể nào đó.

2.3. Lỗi là căn cứ giảm mức bồi thường

Trước khi BLDS năm 2015 được thông qua, BLDS năm 2005 cũng ghi nhận lỗi là yếu tố được xem xét để giảm mức bồi thường cho người gây thiệt hại. Tuy nhiên, trong BLDS năm 2005, việc giảm mức bồi thường thiệt hại (nếu có) lại chỉ đặt ra đối với trường hợp người gây thiệt hại có lỗi vô ý mà không đặt ra đối với trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Mặc dù vậy, trong khi thực tiễn xét xử, Tòa án lại cho ra rất nhiều quyết định giảm mức bồi thường cả trong trường hợp chủ thể “không có lỗi”. Quy định này mang tính nhân đạo rất cao, bởi vì thực tế việc căn cứ vào mức độ lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại để giảm mức bồi thường là cần thiết.

Khắc phục những điểm bất cập đó trong BLDS năm 2005, những quy định về giảm mức bồi thường thiệt hại trong quy định của BLDS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung tương đối nhiều. Theo BLDS năm 2015 quy định người chịu trách nhiệm BTTH có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình (khoản 2 Điều 585). Nhà làm luật cũng đã bổ sung thêm một trường hợp cần xem xét lỗi để giảm mức bồi thường đó là trường hợp không có lỗi ngoài trường hợp có lỗi vô ý. Tiếp theo là việc xem xét lỗi của người chịu trách nhiệm bồi thường thay vì xem xét lỗi của người gây thiệt hại như trong BLDS năm 2005. Những thay đổi của BLDS năm 2015 này hoàn toàn phù hợp không chỉ về lý luận mà còn phù hợp với logic. Bởi, theo lý thuyết, một chủ thể chỉ phải chịu trách nhiệm khi có lỗi nhưng cũng cần xem xét mức độ lỗi của họ nặng hay nhẹ và những trường họ không có lỗi để quyết định mức bồi thường phù hợp. Tuy vậy, lỗi cũng chỉ là một trong hai yếu tố được xem xét mà không phải là yếu tố quyết định để giảm mức bồi thường. Bởi vì việc giảm mức bồi thường cho người phải bồi thường lại không thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Do đó, nếu người chịu trách nhiệm bồi thường không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà thiệt hại lớn hơn khả năng kinh tế của họ và cũng lớn hơn khả năng kinh tế của người bị thiệt hại thì Tòa án cũng khó có thể quyết định giảm mức bồi thường cho người chịu trách nhiệm bồi thường.

2.4. Lỗi là căn cứ xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường

Chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chủ đề có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật cho người khác về danh dự, uy tín, tài sản, tính mạng, sức khỏe. Người gây thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng… Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải là người có khả năng bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện.

Trước hết, khái niệm chủ thể gây thiệt hại và chủ thể chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là không đồng nhất với nhau. Người gây thiệt hại cho người khác có thể là bất kỳ ai, nhưng không phải người nào cũng có đủ khả năng BTTH. Bên cạnh đó, thiệt hại của BTTHNHĐ không chỉ phát sinh do hành vi của con người gây ra mà con do tài sản gây ra. Nên không phải mọi trường hợp người chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phải là người đã có thành vi gây thiệt hại.

Ví dụ: Đối với trường hợp thiệt hại do hành vi của con người gây ra, theo khoản 2 Điều 596, khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp này, điều luật quy định trách nhiệm BTTH thuộc về người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Họ không phải là người gây thiệt hại nhưng họ có lỗi trong việc làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, hơn nữa lỗi này còn là lỗi cố ý, do đó họ phải chịu trách nhiệm BTTH. Hay như trường hợp thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì trường học, bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra (Điều 599). Nếu trường học, bệnh viện, pháp nhân khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường (khoản 3 Điều 599). Lỗi trong trường hợp này sẽ thuộc về cha, mẹ, người giám hộ.

2.5. Lỗi là căn cứ xác định mức bồi thường

Để tránh sai sót, thiếu khách quan khi định mức bồi thường chúng ta cần thiết phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau. Một trong những yếu tố không thể bỏ qua là yếu tố lỗi của các chủ thể, lỗi để định mức bồi thường có thể là lỗi của bên gây thiệt hại và có thể là lỗi của bên bị thiệt hại.

* Tác động từ lỗi của bên gây thiệt hại tới mức bồi thường

Về nguyên tắc, bên gây thiệt hại khi thực hiện hành vi trái pháp luật làm tổn thất cho người bị thiệt hại về mặt tài sản hay tinh thần, họ đều phải chịu trách nhiệm bồi thường “toàn bộ”. Tuy nhiên, mức bồi thường “toàn bộ” sẽ được xác định phù hợp cả về không gian, thời gian, mức độ lỗi và khả năng kinh tế của người gây thiệt hại. Thậm chí, pháp luật dân sự cũng có quy định những trường hợp được giảm mức BTTH. Ngoài trường hợp các bên có thỏa thuận mức bồi thường trên sự tự nguyện, pháp luật cũng có quy định trong trường hợp bên gây thiệt hại không có lỗi hoặc lỗi vô ý. Để có thể giảm mức bồi thường theo khoản 2 Điều 585 BLDS năm 2015, người gây thiệt hại có đủ 2 điều kiện song song với nhau, sau đây:

(i). Không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

(ii). Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại. Hiện nay, theo BLDS năm 2015 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP đều không quy định rõ thế nào là thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt. Để khắc phục điều này, theo dự thảo của Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự số 91/2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (sau đây gọi tắt là Dự thảo nghị quyết) có hướng dẫn thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình là việc người bồi thường chỉ có khả năng tối đa bồi thường 1/2 thiệt hại tính bằng tiền.

Như vậy, việc xác định người gây thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý sẽ góp phần giúp cơ quan thực hiện luật định mức bồi thường cho họ hợp lý hơn. Lỗi vô ý được quy định rõ là trường hợp người gây thiệt hại không nhìn thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù họ phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại có xảy ra nhưng họ chủ quan cho rằng thiệt hại không thể xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

* Tác động từ lỗi của bên bị thiệt hại tới mức bồi thường

Theo quy định của BLDS năm 2015, lỗi vẫn còn là căn cứ không thể thiếu để xác định trách nhiệm bồi thường trong nhiều trường hợp, đặc biệt là quy định về trách nhiệm bồi thường khi bên bị thiệt hại có lỗi.

Theo tinh thần của đó của BLDS năm 2015, khi bên bị thiệt hại có “đóng góp” phần lỗi dẫn đến sự việc gây thiệt thì đây chính là cơ sở để tòa án xác định mức bồi thường của người gây thiệt hại. Lỗi của bên bị thiệt hại sẽ tác động đến mức bồi thường của bên gây thiệt hại ở 2 mức độ: nếu thiệt hại phát sinh hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì người gây thiệt hại được miễn trách nhiệm BTTH; nếu bên bị thiệt có lỗi một phần dẫn đến sự việc thiệt hại thì chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường sẽ được giảm mức bồi thường, không phải bồi thường phần thiệt hại do lỗi của bên bị thiệt hại.

2.6. Lỗi là cơ sở để xác định trách nhiệm hoàn trả

Có thể thấy nghĩa vụ hoàn trả là một trách nhiệm đặc thù của chế định BTTH ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự ngày nay. Đây là nghĩa vụ phát sinh trong một số trường hợp BTTH do người khác gây ra, chẳng hạn như quy định tại Điều 597 BLDS năm 2015 về bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra; Điều 598 BLDS năm 2015 về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra và Điều 600 BLDS năm 2015 về bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra. Đặc điểm chung của các quy định này là chủ thể chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có quyền yêu cầu người gây thiệt hại (là những người có mối quan hệ nhất định) “hoàn trả” số tiền mà họ đã thực hiện bồi thường cho bên bị thiệt hại. Và căn cứ để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ “hoàn trả” này là dựa trên yếu tố lỗi của người gây thiệt hại.

Do đó, yếu tố lỗi lại được nhắc đến với vai trò quan trọng trong trách nhiệm BTTHNHĐ. Tuy nhiên, mỗi một trường hợp BTTHNHĐ do người khác gây ra như đã liệt kê trên lại có cách đánh giá yếu tố lỗi của người gây thiệt hại khác nhau, do đó sau đây tác giả sẽ phân tích kỹ hơn từng trường hợp. Trước hết, tác giả sẽ xem xét chế định bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân và người làm công, người học nghề gây ra khi đang thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao. Nếu những chủ thể trên gây thiệt hại cho người khác thì họ không phải là người chịu trách nhiệm BTTHNHĐ, mà là pháp nhân hoặc người sử dụng người làm công, người học nghề. Trái ngược lại, để bảo vệ quyền lợi cho mình, họ có quyền yêu cầu hoàn trả số tiền mình đã BTTH. Việc “hoàn trả” này là cần thiết bởi sẽ nâng cao được ý thức cũng như trách nhiệm của người có hành vi gây thiệt hại, tránh trường hợp những người này lợi dụng quy định này mà tùy tiện gây thiệt hại cho người khác.

3. Kết luận

Mặc dù theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 hiện nay lỗi không còn là một trong bốn căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tuy nhiên, khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không thể không xem xét vấn đề lỗi. Việc nghiên cứu giá trị của yếu tố lỗi không những giúp chúng ta xác định trách nhiệm bồi thường, mà còn thực chất là cách thức góp phần giải quyết những tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tính công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Quốc hội (2013). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Năm năm 2013.
2. Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự (Luật số 44-L/CTN) ngày 28/10/1995.
3. Quốc hội (2005). Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.
4. Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019). Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập I, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập II, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

The value of the fault factor in settling liability for non-contractual damages under the Civil Code 2015
Le Quang Huy – Hanoi Law University
Abstract: Currently, the Civil Code 2015 has omitted the element of fault as a regulatory element for arising liability for non-contractual damages. So, a person, whether at fault or not for causing damage, will be fully responsible for the aggrieved party? This paper analyzes the value of the fault factor in settling liability for non-contractual damages under the Civil Code 2015.
Keywords: compensation for damage, compensation for damage outside the contract, the Civil Code.