Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, việc phòng, chống dịch và xử lý các hành vi vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh trở thành vấn đề nóng hổi và cần được giải quyết một cách nghiêm khắc, triệt để. Vậy hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm được quy định như thế nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam? Hãy cùng tìm hiểu thông qua bài viết sau đây của Luật sư Ngô Ngọc Diễm và Nguyễn Thị Vân Anh – Công ty Luật ThinkSmart. Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Luật sư Việt Nam ngày 18/09/2021.

Luật sư Việt Nam » Phân tích – Nghiên cứu

logo 3

(LSVN) – Bài viết này nhằm giải quyết mối liên quan giữa bệnh dịch Covid-19 với hành vi làm lây lan dịch bệnh từ yếu tố con người bằng việc viện dẫn quy định của Điều 240 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã quy định hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người.

25

Hải Dương xét xử vụ án làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người (Ảnh minh họa).

Hiện nay, dịch bệnh virus Covid-19 đã trở thành đại dịch toàn cầu. Tổ chức y tế thế giới (WHO) cũng đã đặt ra nhiều giả thuyết về nguyên nhân chính dẫn đến đại dịch. Một giả thuyết khác đó là mối quan hệ của nó với các yếu tố môi trường là một vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và mỗi quốc gia. Trước hết, cần sự liên kết của các quốc gia và sau đó tìm kiếm cho riêng mình những biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.

Ở Việt Nam, các giải pháp đồng bộ đã được Chính phủ đưa ra áp dụng đã phần nào mang lại hiệu quả khả thi trong việc phòng chống dịch bệnh. Một trong các biện pháp đó là quy định của pháp luật hiện hành và đặc biệt pháp luật hình sự đã góp phần tích cực trong công tác phòng chống dịch bệnh lây lan.

Bài viết này nhằm giải quyết mối liên quan giữa bệnh dịch Covid-19 với hành vi làm lây lan dịch bệnh từ yếu tố con người bằng việc viện dẫn quy định của Điều 240 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã quy định hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người.

Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm như dịch tả, đậu mùa, thương hàn, bệnh than, sốt rét, sốt xuất huyết Ebola, H5N1, Covid-19… Như vậy có thể hiểu, bệnh truyền nhiễm là những loại bệnh nguy hiểm, có khả năng gây tổn hại nặng đến sức khỏe hoặc tính mạng của người bị lây nhiễm, dễ lây nhiễm, dễ lan rộng và nhanh chóng lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm.

Dịch bệnh truyền nhiễm được hiểu là sự xuất hiện bệnh truyền nhiễm có quy mô, tính chất vượt quá khả năng kiểm soát của cơ quan y tế, tỷ lệ tử vong cao mà chưa có biện pháp khống chế hiệu quả thì trở thành dịch bệnh truyền nhiễm.

Đối với tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” có thể hiểu là hành vi của người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, pháp nhân thương mại cố ý đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người; đưa vào hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người hoặc các hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.

Điều 240. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, quy định như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm:

a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;

c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm:

a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;

b) Làm chết người.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm:

a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;

b) Làm chết hai người trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Dấu hiệu định tội

Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này có thể là người từ đủ 16 tuổi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hoặc đối với chủ thể thực hiện các hành vi “cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người” hoặc hành vi “cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người” là chủ thể đặc biệt.

Chủ thể ở đây phải là người có trách nhiệm trong việc cho phép mang vào, đưa ra khỏi vùng có dịch động, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, hoặc là người có trách nhiệm trong việc cho phép đưa từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người hoặc thuộc diện kiểm dịch mà không thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm dịch.

Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Một là, hành vi đưa ra hoặc cho phép đưa vào, mang ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đưa hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người. Hành vi đưa hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác (như các dụng cụ, phương tiện giết mổ động vật, vật liệu, bao bì đóng gói, lưu thông vận chuyển động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh) có khả năng truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người là góp phần làm cho dịch bệnh lây lan ra khỏi vùng có dịch bệnh, gây những hậu quả xấu cho môi trường và cho tính mạng, sức khỏe của con người trong những vùng chưa bị lây nhiễm nên bị coi là hành vi phạm tội.

Vận chuyển động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác đã bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh vào vùng chưa có dịch bệnh. Mang ra khỏi khu vực hạn chế lưu thông là vận chuyển động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh từ vùng đang có dịch bệnh đến vùng khác chưa có dịch bệnh. Khu vực hạn chế lưu thông động vật, thực vật sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác là khu vực được giới hạn bởi đơn vị hành chính như một địa danh, một địa phương, một vùng lãnh thổ mà ở đó đang có dịch bệnh đối với động vật, thực vật sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác đã được cơ quan có thẩm quyền công bố (Uỷ ban nhân dân các cấp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) trên các phương tiện thông tin đại chúng).

Hai là, hành vi đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người. Hành vi này cũng tương tự như hành vi đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc đưa vật phẩm khác có khả năng truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người. Tuy nhiên, điểm khác biệt của hành vi này là đưa hoặc cho phép đưa vào Việt Nam những động vật, thực vật hoặc sản phẩm của động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây lan cho con người.

Tính chất nguy hiểm của hành vi “nhập khẩu” dịch bệnh từ nước ngoài vào Việt Nam trên nghiêm trọng hơn thể hiện ở hành vi nhập khẩu (tức là chuyển những đối tượng đó vào biên giới Việt Nam) hoặc cho phép nhập khẩu (được hiểu là cấp giấy phép hoặc làm thủ tục cho người khác đưa những đối tượng đó vào biên giới Việt Nam) vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng truyền cho người  như nhập gia cầm bị nhiễm bệnh (H5N1),…

Đây có lẽ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến một số dịch bệnh nguy hiểm cho các loại vật nuôi trong thời gian qua ở Việt Nam như heo tai xanh, cúm gà… Hành vi đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật thuộc diện kiểm dịch mà không thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm dịch. Đưa vào hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật thuộc đối tượng kiểm dịch mà không thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm dịch là hành vi nhập khẩu hoặc cho phép nhập khẩu vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật thuộc đối tượng kiểm dịch mà không thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm dịch như: trốn tránh việc kiểm dịch hoặc kiểm dịch qua loa không đúng với các quy định về kiểm dịch động vật, thực vật.

Danh mục động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật thuộc diện kiểm dịch được quy định trong các văn bản của Nhà nước như Thông tư số 30/2014/TT-BNNPTNT ngày 05/9/2014 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về Danh mục vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật và Danh mục vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật phải phân tích nguy cơ dịch hại trước khi nhập khẩu vào Việt Nam; Quyết định số 45/2005/QĐ-BNN ngày 25/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về Về việc ban hành Danh mục đối tượng kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; Danh mục động vật, sản phẩm động vật thuộc diện phải kiểm dịch.

Ba là, hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người có thể là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về phòng chống dịch bệnh nguy hiểm cho người (như cố tình không tiêm phòng vaccine phòng dịch cho nhân dân; không tổ chức kịp thời việc khoanh vùng khu vực có dịch bệnh để dịch bệnh có điều kiện lây lan thêm; người bị nhiễm bệnh không chịu áp dụng các phương pháp cách ly, phòng ngừa bắt buộc để tránh lây lan dịch bệnh cho người khác,…).

Hoặc hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật có thể là những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về thú y và kiểm dịch thực vật (như cố tình không tiêm phòng vaccine hoặc áp dụng các phương pháp cách ly, phòng ngừa bắt buộc khác để tránh gây nguy hại cho người và phòng bệnh nguy hiểm cho động vật; bán, giết mổ hoặc vứt xác động vật chết gây ô nhiễm môi trường,…).

Dấu hiệu lỗi của chủ thể

Lỗi của chủ thể là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, có thể làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người nhưng vẫn thực hiện do mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Dấu hiệu hậu quả của tội phạm

Hậu quả của nhóm tội này là làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người hoặc là gây thiệt hại về tài sản giá trị từ 100 triệu đồng trở lên do việc làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật. Thiệt hại được tính đến ở đây không chỉ là thiệt hại cho người nuôi, trồng mà bao gồm cả các chi phí nhằm ngăn chặn dịch bệnh lây lan, đồng thời để xóa bỏ dịch bệnh.

Như vậy, so với BLHS năm 1999, Điều 240 BLHS năm 2015 đã có điểm mới tiến bộ bằng cách đã quy định hậu quả theo hướng có thể xác định ngay được mà không cần văn bản hướng dẫn mặc dù loại hậu quả này không thể định lượng được bằng thiệt hại về vật chất hay thể chất. Điều 240 đã thay dấu hiệu gây hậu quả “rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” được quy định tại khoản 2 Điều 186 BLHS năm 1999 thành các dấu hiệu định khung tại khoản 2 Điều 240. Đồng thời, quy định chặt chẽ hơn với cụm từ “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” nhằm phân biệt với các trường hợp pháp luật cho phép.

Ngoài ra, điều luật này đã đổi tên để phù hợp với mô tả trong cấu thành tội phạm, yêu cầu của tình hình thực tiễn và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nếu Điều 186 BLHS năm 1999 với tên gọi là tội “Làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” thì Điều 240 được đổi tên thành tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”.

Trước tình hình diễn biến của dịch bệnh Covid-19 ngày càng phức tạp gây thương vong về người là rất lớn, kéo theo khủng hoảng kinh tế và gây mất trật tự an toàn xã hội, ngày 30/3/2020, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 45/TANDTC-PC về việc xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Văn bản đã cụ thể hóa “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 BLHS, như sau: Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly thực hiện một trong các hành vi sau đây gây lây truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người:

– Trốn khỏi nơi cách ly;

– Không tuân thủ quy định về cách ly;

– Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;

– Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.

Dấu hiệu định khung

Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế (điểm a khoản 2 Điều 240)

Đây là trường hợp phạm tội để lại hậu quả đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế phải công bố dịch. Theo Quyết định số 02/2016/QĐ-TTg, ngày 28/01/2026 của Thủ tướng Chính phủ quy định điều kiện công bố dịch, công bố hết dịch bệnh truyền nhiễm, đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B và nhóm C thì điều kiện để công bố dịch khi:

– Một xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là xã) được coi là có dịch khi có số người mắc bệnh vượt quá số mắc trung bình của tháng cùng kỳ 03 năm gần nhất;

– Một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là huyện) được coi là có dịch khi có từ 2 xã có dịch trở lên;

– Một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh) được coi là có dịch khi có từ 2 huyện có dịch trở lên.

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 38 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố dịch theo đề nghị của Giám đốc Sở Y tế đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B và nhóm C.

Căn cứ quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007 về phân loại bệnh truyền nhiễm thì:

– Nhóm B gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B bao gồm bệnh do virus A-đê-nô (Adeno); bệnh do virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); bệnh bạch hầu; bệnh cúm; bệnh dại; bệnh ho gà; bệnh lao phổi; bệnh do liên cầu lợn ở người; bệnh lỵ A-míp (Amibe); bệnh lỵ trực trùng; bệnh quai bị; bệnh sốt Đăng gơ (Dengue), sốt xuất huyết Đăng gơ (Dengue); bệnh sốt rét; bệnh sốt phát ban; bệnh sởi; bệnh tay-chân-miệng; bệnh than; bệnh thủy đậu; bệnh thương hàn; bệnh uốn ván; bệnh Ru-bê-ôn (Rubeon); bệnh viêm gan virus; bệnh viêm màng não do não mô cầu; bệnh viêm não virus; bệnh xoắn khuẩn vàng da; bệnh tiêu chảy do virus Rô-ta (Rota);

– Nhóm C gồm các bệnh truyền nhiễm ít nguy hiểm, khả năng lây truyền không nhanh. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm C bao gồm bệnh do Cờ-la-my-đi-a (Chlamydia); bệnh giang mai; các bệnh do giun; bệnh lậu; bệnh mắt hột; bệnh do nấm Can-đi-đa-an-bi-căng (Candida albicans); bệnh Nô-ca-đi-a (Nocardia); bệnh phong; bệnh do virus Xi-tô-mê-ga-lô (Cytomegalo); bệnh do virus Héc-péc (Herpes); bệnh sán dây; bệnh sán lá gan; bệnh sán lá phổi; bệnh sán lá ruột; bệnh sốt mò; bệnh sốt do Rích-két-si-a (Rickettsia); bệnh sốt xuất huyết do virus Han-ta (Hanta); bệnh do Tờ-ri-cô-mô-nát (Trichomonas); bệnh viêm da mụn mủ truyền nhiễm; bệnh viêm họng, viêm miệng, viêm tim do virus Cốc-xác-ki (Coxsakie); bệnh viêm ruột do Giác-đi-a (Giardia); bệnh viêm ruột do Vi-bờ-ri-ô Pa-ra-hê-mô-ly-ti-cút (Vibrio Parahaemolyticus) và các bệnh truyền nhiễm khác.

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Bộ trưởng Bộ Y tế công bố dịch theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A và đối với một số bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B khi có từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên đã công bố dịch.

Căn cứ quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 về phân loại bệnh truyền nhiễm thì nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A bao gồm bệnh bại liệt; bệnh cúm A-H5N1; bệnh dịch hạch; bệnh đậu mùa; bệnh sốt xuất huyết do virus Ê-bô-la (Ebola), Lát-sa (Lassa) hoặc Mác-bớc (Marburg); bệnh sốt Tây sông Nin (Nile); bệnh sốt vàng; bệnh tả; bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do virus và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh.

Hiện nay, trước tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của virus Covid-19 đang có diễn biến phức tạp trên thế giới và tại Việt Nam, gây ra hậu quả to lớn về người, kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Do đó, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-BYT, ngày 29/01/2020 về việc bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do Covid-19 gây ra vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007. Các hoạt động phòng, chống bệnh viêm đường hô hấp cấp do nCov (Covid-19) được thực hiện theo quy định đối với bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao (thuộc nhóm A theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007).

Làm chết người (điểm b khoản 2 Điều 240)

Đây là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà làm chết người, chứ không phải giết người. Làm chết người trong trường hợp này được hiểu là người phạm tội đã gây hậu quả chết người và lỗi của họ đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Số lượng người chết là 01 người.

Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (điểm a khoản 3 Điều 240)

Đây là trường hợp phạm tội để lại hậu quả đó là Thủ tướng Chính phủ phải công bố dịch. Theo Quyết định số 02/2016/QĐ-TTg, ngày 28/01/2026 của Thủ tướng Chính phủ quy định điều kiện công bố dịch, công bố hết dịch bệnh truyền nhiễm, đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A thì điều kiện công bố dịch khi có ít nhất một người bệnh được chẩn đoán xác định.

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 38 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Thủ tướng Chính phủ công bố dịch theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A khi dịch lây lan nhanh từ tỉnh này sang tỉnh khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người. Các bệnh truyền nhiễm nhóm A được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, bao gồm: bệnh bại liệt; bệnh cúm A-H5N1; bệnh dịch hạch; bệnh đậu mùa; bệnh sốt xuất huyết do virus Ê – bô – la (Ebola), Lát-sa (Lassa) hoặc Mác-bớc (Marburg); bệnh sốt Tây sông Nin (Nile); bệnh sốt vàng; bệnh tả; bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do virus và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh; và bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra (theo Quyết định số 219/QĐ-BYT, ngày 29/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế).

Ví dụ: Ngày 01/4/2020, trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg về việc công bố dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra, trong đó xác định dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra là bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ khẩn cấp toàn cầu, Lây truyền qua đường hô hấp từ người sang người.

Làm chết 02 người trở lên (điểm b khoản 2 Điều 240)

Đây là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà làm chết người, chứ không phải giết người. Làm chết người trong trường hợp này được hiểu là người phạm tội đã gây hậu quả chết người và lỗi của họ đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Số lượng người chết là từ 02 người trở lên.

Một số vấn đề cần đặt ra

Một là, phát huy vai trò quan trọng của Bộ, ngành tư pháp trong việc tham mưu xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm hệ thống pháp luật Việt Nam đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, hiện đại, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, có hiệu lực, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững KT-XH và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.

Hai là, việc xử lý các hành vi vi phạm về phòng, chống các bệnh truyền nhiễm tại Việt Nam được áp dụng theo Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuy nhiên vẫn còn một số bất cập trong việc mô tả hành vi khách quan dẫn đến việc hiểu như thế nào là “hành vi khác” theo điểm c khoản 1 điều luật nêu trên chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng bằng văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều luật gia, nhà nghiên cứu cho rằng “hành vi khác” nói trên có thể được dẫn chiếu giải thích là các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 8 Luật Phòng, chống các bệnh truyền nhiễm năm 2007 hoặc là hành vi vi phạm trách nhiệm bắt buộc chữa bệnh của người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A quy định tại điểm a khoản 1 Điều 66 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009; tuy nhiên, cho đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền.

Mới đây nhất, để góp phần ngăn chặn sự gia tăng của dịch bệnh Covid-19, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 hướng dẫn áp dụng pháp luật và tổ chức xét xử đối với một số hành vi vi phạm pháp luật phổ biến có đủ yếu tố cấu thành tội phạm trong phòng, chống dịch bệnh; theo đó, đã liệt kê cụ thể một số hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 BLHS năm 2015, như: Trốn khỏi nơi cách ly; không tuân thủ quy định về cách ly; từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly; không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối…; đồng thời, tại Công văn này còn hướng dẫn cụ thể 09 nhóm hành vi vi phạm khác liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 có thể bị xử lý hình sự với mức phạt được quy định và được dẫn chiếu đến điều luật phù hợp để xử lý.

Tuy nhiên, tác giả cho rằng các quy định pháp luật hiện hành (Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015, Công văn số 45/TANDTC-PC) chưa quy định đầy đủ về phạm vi đối tượng cần xử lý. Hiện nay, Công văn này chỉ hướng đến các đối tượng bao gồm: “Người đã được thông báo mắc bệnh” và “người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly”. Như vậy, đối tượng là người nghi ngờ mắc bệnh nhưng chưa được thông báo cách ly (ví dụ như trường hợp bệnh nhân số 17 – khi mới trở về Việt Nam từ Anh hoặc bệnh nhân số 34, bệnh nhân số 100,…) vô hình chung lại không thể xử lý hình sự mặc dù họ có thực hiện các hành vi vi phạm làm lây lan dịch bệnh Covid-19 như hướng dẫn tại Công văn này.

Do đó, để bao quát đầy đủ phạm vi đối tượng cần xử lý hình sự, tác giả cho rằng, cần quy định cả đối tượng là “người thuộc diện phải cách ly theo thông báo chung của cơ quan y tế có thẩm quyền” mà chưa cần phải chỉ rõ danh tính cụ thể; đồng thời, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao cũng cần tiếp tục gấp rút xây dựng, ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với từng hành vi phạm tội cụ thể liên quan đến việc làm lây lan các bệnh truyền nhiễm trên cơ sở tham khảo quy phạm pháp luật trong Bộ luật Hình sự hoặc luật chuyên ngành của một số quốc gia khác.

Ngoài ra, tác giả cũng đề xuất sửa đổi điều khoản này theo hướng bỏ điểm a Điều 240 BLHS năm 2015 do dấu hiệu định khung tăng nặng quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật này không phải dấu hiệu về hậu quả của hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, bởi việc công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế không thể là hậu quả trực tiếp từ hành vi vi phạm của một cá nhân.

Ba là, Điều 240 BLHS năm 2015 xây dựng mới trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 186 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu một số hành vi đã xảy ra trong tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của virus Covid-19 chúng tôi đề xuất Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ban hành một số hướng dẫn cụ thể thi hành Điều 240 BLHS năm 2015 như sau:

– Quy định chi tiết đối với người mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm có hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người và các trường hợp khác liên quan đến tác nhân là con người làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người.

Ngoài ra, Chính phủ, Bộ Y tế cần nghiên cứu, xây dựng quy định riêng về giám sát và đáp ứng với bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm, cụ thể đối với bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do virus và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh. Trọng tâm là xây dựng được văn bản quy phạm pháp luật về “quy trình giám sát” phân cấp từ cấp quốc gia đến cơ sở, gồm: Thu thập số liệu, thông tin; phân tích số liệu, phiên giải và đánh giá kết quả; đánh giá nguy cơ, nhận định tình hình bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm; đề xuất biện pháp can thiệp; báo cáo và chia sẻ thông tin…

Mặt khác, cần xây dựng quy định chi tiết hơn đối với “địa điểm giám sát”, việc giám sát bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm phải được thực hiện trên toàn bộ phạm vi địa bàn quản lý hành chính được phân công giám sát (Cơ sở y tế; khu vực cách ly bệnh truyền nhiễm; khu vực đang có ổ dịch, dịch; khu vực có ổ dịch cũ, khu vực có nguy cơ xảy ra dịch bệnh; nơi cư trú, học tập, làm việc, điểm đến du lịch, lưu trú của người mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm; khu vực cửa khẩu đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy; khu vực xảy ra thiên tai, thảm họa).

Luật sư Ngô Ngọc Diễm & Nguyễn Thị Vân Anh

Công ty Luật ThinkSmart

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *